Catégories
Hương Quê

Ra đi có Em mang theo Quê Hương

Ngày bước lên tàu đi vượt biên
Tay dắt con, túi rỗng không tiền,
Rời bỏ nơi chôn nhau cắt rún,
Chẳng biết bao giờ đời mới yên.

Rời bỏ quê hương ta ra đi,
Chẳng biết đời ta còn lại gì,
Dĩ vãng xin quên đừng tiếc nữa,
Đất nước ngoảnh nhìn đừng khóc chi.

Ta tưởng rằng ta hóa kiếp rồi,
Miếng ăn, tiếng nói cũng đổi thôi,
Giờ đây lột xác thân bèo dạt,
Sống làm người mới đất xa xôi..

Nào ngờ đã hăm mấy năm qua,
Vượt qua biết bao nỗi phong ba,
Vật đổi sao dời đâu chẳng biết,
Duy ta nhìn lại vẫn là ta.

Quê người, nếp cũ tưởng đã quên,
Nào ngờ cuộc sống vẫn thân quen,
Quê hương ngày đó chừng đã mất
Tạo lại nơi đây, tay vợ hiền.

Ngày 14 tháng 9 năm 2004
J.B. Ho

Catégories
Hương Quê

Về Đà Nẵng

Đặng Tiến

. Trả lời Luân Hoán


Đọc thơ bạn gửi tôi trên tờ báo nọ,

nhằm lúc đau vùi, sưng phổi sốt liên miên.

Thơ bạn gửi như một làn gió mát,

nghiêng cánh hoa hồng chao nắng ngoài hiên.

Về Đà Nẵng, tôi là người khách lạ,

những con đường lạc lõng bước chân xưa,

những đêm sao thoảng hương mùa hạ cũ,

những cánh buồm chờ gió mộng vu vơ.

Bè bạn cũ giờ phần đông xiêu lạc,

đứa đọa đầy, đứa chết, đứa tha hương,

Gặp lại nhau thằng cười, thằng mếu máo,

thằng tủi thân tránh ngõ quanh đường.

Thằng X tự hào vua cốt sắt,

xây móng cảng Phòng, lé mắt Liên Xô,

A với B xoay sang nghề xây cất,

kiếm đủ ăn vùng nghĩa địa Gò Cà

Bạn nhờ tôi xin ít hình căn cước,

bạn bè xưa, nhân ảnh khói sương xa.

Chúng cười ngất : mày Việt kiều ngớ ngẩn,

hình tụi này lỡ lọt mắt CA ?

(về Đà Nẵng, tôi người sang nhất tỉnh,

vườn hoang sơ bướm vẫn lượn ngày đêm,

lúc bay bướm đi phất phơ chút đỉnh,

thì phất phơ bươm bướm cũng bay kèm!)

Đà Nẵng hợp doanh sanh nhiều tiệm nhậu,

một món ăn : lương tháng công nhân viên.

Bạn bè mình làm gì vô tới đó,

trái ổi, trái me tàm tạm đẩy hơi men.

Nơi hẹn nhau vẫn lề đường quán cóc,

bùn bò Mụ Đãi, hẻm Lê Đình Dương,

chúng khoát tay : mày lâu ngày về nước,

tụi này bao, cái đó sự thường,

tụi này đều xơ rơ xác rác,

mà gặp nhau ba sợi cứ lai rai,

mày uống đi, chai này còn chai khác,

tình nghĩa thời này không chắc có ngày mai.




Thôi Đà Nẵng, thôi lần này vĩnh biệt,

chào mẹ già, bạn cũ, tuổi xa khơi,

chào khóm phượng cuối mùa ri rỉ máu,

trên vết thương tươi rói đã muôn đời...


Đặng Tiến Tháng 6-1987





Chú thích : X : Nguyễn Hạnh(BP58), kỹ sư Phú Thọ
A và B : Vĩnh Kha(BP58) đã qua đời và Nguyễn Thành Ngân(BP59).
Gò Cà : Vùng nghĩa địa, mới xây cất để quy hoạch mồ mã.

Catégories
Thơ

Ông Đồ và Thơ họa

Ông Đồ

Mỗi năm hoa đào nở
Lại thấy Ông Đồ già
Bày mực tàu giấy đỏ
Bên phố đông người qua.


Bao nhiêu người thuê viết
Tắm tắc ngợi khen tài
“Hoa tay thảo những nét,
Như phượng múa rồng bay”!


Nhưng mỗi năm mỗi vắng
Người thuê viết nay đâu ?
Giấy đỏ buồn không thắm
Mực đọng trong nghiên sầu…


Ông Đồ vẫn ngồi đấy
Qua đường không ai hay
Lá vàng rơi trên giấy
Ngoài trời mưa bụi bay.


Năm nay đào lại nở
Không thấy Ông Đồ xưa
Những người bao năm cũ
Hồn ở đâu bây giờ?


Vũ Đình Liên

***

Lưu Luyến
(Đáp hộ Ông Đồ)


Ngày xưa hoa đào nở
Ta không ngại tuổi già
Ngồi viết câu đối đỏ
Khi có người ghé qua.


Chữ đẹp vì hay viết
Người thương lại khen tài
Dọc ngang theo từng nét
Ta để tâm hồn bay.


Mỗi năm đường phố vắng
Người thuê chẳng thấy đâu
Bút chờ bên giấy thắm
Ta ngó dạ vương sầu.


Thánh hiền chữ còn đấy
Đạo lý tuyệt vời hay
Buồn thay như tờ giấy
Quốc hồn theo gió bay.


Ngày nay hoa đào nở
Không còn hình ảnh xưa
Hồn ta nơi phố cũ
Lưu luyến tự bao giờ!


Hồ Mộng Thiệp
Xuân Quý Hợi 1983





Catégories
Thơ

Bùi Giáng Nguồn Xuân

Đặng Tiến

Hôm mùng ba mùng bốn theo nhau đẩy lùi mồng một mồng hai của hôm nay Nguyên Đán (Mưa Nguồn, tr. 164)

Câu thơ văn xuôi này của Bùi Giáng mang hai đặc tính : một là ý nghĩa nói về ngày Tết và mùa Xuân, hai là chữ nghĩa đi ngược chiều thời gian. Dĩ nhiên là mồng ba đẩy lùi mồng hai ; mồng hai đẩy lùi mồng một. Như vậy hôm nay Nguyên Đán nằm ở vị trí nào trên chuỗi tháng ngày ? Nói khác đi, Bùi Giáng đứng từ thời điểm nào ở đầu tháng giêng để phát ngôn ?

Lời thơ theo trật tự số mục, và lối đếm thông thường : mùng một, mùng hai … mùng ba, mùng bốn … Nhưng theo ý nghĩa câu thơ, thì phải nói ngược lại : mùng bốn mùng ba (sẽ) theo nhau đẩy lùi mồng hai mồng một. Như vậy, nhà thơ phát ngôn từ ngày hôm nay Nguyên Đán, như Nguyễn Bính năm 1940 : Năm mới tháng giêng mồng một Tết
Còn nguyên vẹn cả một trời Xuân

Nhưng nếu hiểu (đã) theo nhau, thì tác giả lên tiếng vào ngày mồng Năm. Va øtrong cả hai giả thuyết, trật tự chữ nghĩa trong câu thơ Bùi Giáng vẫn không thuận chiều.

Rối rắm như vậy để nói lên một điều cơ bản : thơ Bùi Giáng là một « dòng nước ngược » một tâm thức đi ngược chiều thời gian, trong một Sử Lịch, ngược dòng Lịch Sử.

Trong hàng vạn trang sách để lại, Bùi Giáng thường dùng từ Sử Lịch. Chỉ một lần dùng chữ Lịch sử để chối bỏ :
Sử Lịch phai trang
Chạy quàng
Là Lịch Sử
(Lá Hoa Cồn, tr. 55)

Xuân trong thơ Bùi Giáng là xuân không mùa, xuân duy nhất và tuyệt đối, mà ông gọi là Nguyên Xuân (Lá Hoa Cồn, tr. 26), là khởi thủy của nguồn sống, nguồn thơ, quê của Em Mọi, của Đười Ươi, đồng thời là đối tượng, là cứu cánh của sáng tạo, của Lời Cố Quận, Tiếng Gọi Về :
Thưa rằng ly biệt mai sau
Là trùng ngộ giữa hương màu Nguyên Xuân

(Mưa Nguồn, tr. 25)

Tác phẩm, và cuộc đời Bùi Giáng là niềm thủy chung trước sau như một với môït Màu Hoa Trên Ngàn : ông khởi đi từ đây và trở về lại đấy. Xuân là nguồn mạch thơ tuôn tuôn từ miền xa biệt :
Lỡ từ lạc bước chân ra
Chết tự sơ ngộ màu hoa trên ngàn

*

Mùa Xuân xuất hiện thường xuyên trong tập Mưa Nguồn, và tái hiện trong Lá Hoa Cồn, về sau chỉ thấp thoáng mỗi ngày một ít, ở những thi phẩm cuối đời.

Mưa Nguồn thi phẩm đầu tay và đều tay nhất của Bùi Giáng được in năm 1962, gồm có nhiều bài làm từ 1948. Lời thơ trong sáng, tươi thắm và tha thiết, vào tập bằng hai câu mào đầu :
Xin chào nhau giữa con đường
Mùa xuân phía trước, miên trường phía sau

là câu thơ nổi tiếng sớm nhất của Bùi Giáng, vì nó có thể được sử dụng ở nhiều tần số khác nhau : buồn hay vui, u hoài hay đùa cợt, ví dụ khi bè bạn gặp nhau ngoài phố, lặp lại câu thơ : xin chào nhau giữa con đường, dù không hiểu miên trường là gì.

Và ý tác giả có thể ngược lại : mùa xuân phía sau, miên trường phía trước. Cũng cần nói thêm, thời đó, 1962, thơ Bùi Giáng chỉ được truyền tụng trong một giới độc giả và bằng hữu, đồng hương, chứ không phải là một « hiện tượng văn học » như gần đây.

Có thể là thơ của tuổi xanh, nên tập Mưa Nguồn đã khởi đi từ nhiều hình ảnh thắm tươi, điệu thơ ánh ỏi :

Những nhành mai sớm sương bên lá Những nhành liễu chiều gió bên cây Cũng lay lất bởi đời xuân em ạ Thế nên chi anh cũng viết dòng này
(Những Nhành Mai, Mưa Nguồn, tr. 10)

Lời thơ tham dự với đất trời vào niềm hoan lạc của mùa xuân. Thể thơ cổ điển, nhưng tác giả đã trộn lẫn thơ bảy và tám chữ, với âm điệu lạ ở câu hai. Nhưng đặc sắc trong thơ Bùi Giáng, thời ấy là những hình ảnh tân kỳ, trong thể thơ truyền thống :

Tay lẩy bẩy níu gì xuân bay biến Ô thiều quang ! Làn nước cũ trôi mau Em đi lên vói bắt mấy hương màu Miền đất Thượng có mấy bờ hoa mọc Xa biệt lắm Mưa Nguồn trên mái tóc Đã mấy lần thổi lạc lệ lưa thưa
(Giã từ Đà Lạt,1958, Mưa Nguồn, tr. 94)

Lời thơ diễn tả niềm hoang mang trước thời gian, ý tưởng không mới, nhưng lối kết hợp ẩn dụ thì mới, so với lối thơ tám chữ trước đó. Ở Xuân Diệu, Huy Cận niềm ám ảnh của phôi pha không gây bất ngờ như với Ôi thiều quang ! làn nước cũ trôi mau…

Trần gian phôi pha, thời gian hủy diệt, nhưng nhà thơ chấp nhận quy luật, nên đã ghì siết hai tay, Nàng Thơ đẹp của trần gian ứa lệ :
Tôi đã nguyện yêu trần gian nguyên vẹn
Hết tâm hồn và hết cả da xương
(…)
Còn ở lại một ngày còn yêu mãi
Còn một đêm còn thở dưới trăng sao
Thì cành mộng còn tung lên không ngại
Níu trời xanh tay vói kiểng chân cao

Nhưng em hỡi trần gian ôi ta biết
Sẽ rồi ra vĩnh biệt với ngươi thôi
Ta chết lặng bó tay đầu lắc
Đài xiêu ôi xuân sắp rụng mất rồi

(Phụng Hiến, Mưa Nguồn, tr. 30)

Những bài thơ tin yêu cuộc sống, tươi sáng và thắm thiết như vậy ít khi thấy ở những tập thơ sau, mà cũng ít người nhắc đến. Âu cũng là một thiệt thòi cho ông. Chúng tôi trích dẫn một bài thơ xuân thắm tươi, có lẽ làm vào mùa xuân 1973, toàn văn :

Nắng Nguyên Đán

Chạy đi em, nắng gió bốn chân trời
Về chân đất dưới chân em mọc cỏ
Nắng Nguyên Đán lục lam hay hồng đỏ
Tía vi vu hồng lục cũng bao hàm
Chạy đi em ! sương gió nắng thênh thang
Trời đất đẹp từ bình minh vũ trụ
Nắng Nguyên Đán của nguyên xuân đầy đủ
Cỏ hoa hương chồi nhú lộc miên man
Nắng xuân xanh mở cỏ mọc hai hàng
Và riêng mở duy Một Hàng Ẩn Mật
Nắng phơ phất vì sắc hương phơ phất
Dưới khung trời mặt đất mở thênh thang
Chạy đi em, gót ngọc bỏ hai hàng.

(Bài Ca Quần Đảo, tr. 54)

Phong cách nhắc lại một bài thơ trước :
Chạy đi em, qua vườn thắm theo ngày
Cùng với phút giây này phơi mở lá
Em ngó nhé cành xanh cây giục giã
Hoa nghiêng đầu ríu rít cạnh chim kêu …

(Mưa Nguồn, tr. 96)

Nhưng nhịp thơ nhanh, âm điệu khỏe, hình ảnh rộn ràng hơn, một điệu thơ hiếm có ở Bùi Giáng, nhưng vẫn lấy lại chủ đề nguyên xuân, và giọng lẳng lơ cố hữu, cỏ mọc hai hàng, đi đến ngôn ngữ Ẩn Mật về sau. Tóm lại, một bài thơ không Bùi Giáng mà vẫn Bùi Giáng.

Trở lại với giai đoạn Mưa Nguồn, chàng thanh niên Bùi Giáng còn giữ niềm tin ở mùa xuân, ở trần thế trong thời gian, ở Màu Xuân : Ngàn xuân rộng vô ngần trong bóng nguyệt, hay trong bài Bờ Xuân tiếp theo : Mùa xuân bữa trước mùa xuân bữa sau, xuân bốn bên trong hiện tại vây hãm tấn công đời hạnh phúc lạnh như băng không làm sao nhúc nhích.
(Mưa Nguồn, tr. 38-39)

Mùa xuân, mùa xuân hiển hiện, lung linh ánh sáng, long lanh thinh sắc. Trong niềm hoan lạc của đất trời, con người an tâm vui hưởng, vì tin ở sự tuần hoàn miên viễn, như tin vào một cánh én :
Én đầu xuân tuyết đầu đông
Rừng cô tịch ngóng nội đồng trổ hoa

(Mưa Nguồn, tr. 62)

Người ta thường nói : xuân về. Chữ về tin tưởng an lạc như Về Cố Quận. Xuân về với gió đông, xuân mang thương nhớ trở về (Nguyễn Bính). Chữ về gây cảm giác ấm cúng, thân thiết, tin cậy :

Mùa xuân hẹn Thu về em trở lại
Ta nhìn nhau trong bóng nước mơ màng
Nước chảy mãi bởi vì xuân trở lại
Với dòng trong em hẹn ở bên đường
Ta sẽ đợi nghe đời em kể lại
Thuở xưa kia… bờ nước ấy xưa kia
Ta sẽ đợi nghe đời em nói mãi
Bên đời ai vạn đợi đã chia lìa

Mùa xuân hẹn thu về em trở lại
Bên đời đi còn giữ mãi hay không
Giòng bất tuyệt xanh ngần xuân thơ dại
Sầu hoang vu vĩnh hạ vọng non hồng.

(Mưa Nguồn, tr. 61)

Thơ là hạnh phúc của ngôn từ như trong Một Ngày Lễ Hội, tên một bài thơ Holderlin được Heidegger bình minh. Hạnh phúc trong lời nói, của lời nói, dù nói để chẳng nói gì : thuở xưa kia… bờ nước ấy xưa kia. Câu thơ không mang lại một thông tin nào cả. Xưa kia làm gì ? Bờ nước ấy : ấy nào ? Nào ai biết. Chỉ biết là không gian và thời gian hạnh phúc. Hạnh phúc không cần nội dung. Hạnh phúc không cần lý do, không cần tự thức.

Ngõ ban sơ, hạnh ngân dài, cổng xô còn vọng… Bùi Giáng mách ta thế, và có lần kể :
Xưa kia tôi đã có lần
Và bây giờ đã đôi phần tôi quên

(Ca dao, Mưa Nguồn, tr. 143)

Nhà thơ không cho biết đã có lần làm gì, nhớ gì và quên gì, nhưng chúng ta cảm rằng xưa kia ấy là hạnh phúc, ngay trong nhịp thơ tần ngần, ngập ngừng, lơ đãng. Hồ Dzếnh rất được Bùi Giáng yêu thích, đã thật thà hơn : Có lần tôi thấy tôi yêu
Dáng cô thôn nữ khăn điều cuối thôn
Xa rồi, nay đã lớn khôn
Biết cô hàng xóm có còn nhớ nhau ?

Chúng ta đối chiếu, sẽ thấy sự khác biệt giữa hai tác giả, và đặc sắc của thơ Bùi Giáng mà chúng tôi gọi là hạnh phúc của ngôn ngữ :
Xin yêu mãi và yêu nhau mãi mãi
Trần gian ôi ! Cánh bướm cánh chuồn chuồn

Hạnh phúc ấy là Xuân Trần Gian, ăm ắp trong thơ Bùi Giáng, thời điểm mưa nguồn trên mái tóc. Cùng với tinh thần đó, trước khi mất, ông đặt cái tên Thơ Vô Tận Vui cho một tập di cảo sắp sửa được xuất bản.

Tuy nhiên, niềm vui vô tận ở đây chỉ là một minh triết về cuộc sống. Từ đó không thể nói đời và thơ Bùi Giáng lúc nào cũng vui, dù theo lẽ buồn vui tương đối của sự đời. Vui ở đây hiểu theo nghĩa hiền triết Đông Phương, như cá vui, bướm vui trong Nam Hoa Kinh của Trang Tử. Nhìn dưới góc độ tư tưởng hiện sinh của Phương Tây, thì ngược lại, có thể nói đến “bi kịch“.

Từ 1948, Bùi Giáng có câu thơ sấm ký : Ngày Xuân xanh sơ ngộ để thiên thâu (Mưa Nguồn, tr. 57). Câu thơ quan trọng, mang mâu thuẫn, có tính cách biện chứng, giữa thiên thu và sơ ngộ. Một mặt, nó nằm trong mạch Vũ Trụ Ca của Huy Cận : Lòng chim gieo sáng dệt vân sa
Trên bước đường xuân trở lại nhà
Mở sách chép rằng : vui một sáng
Nghìn năm còn mãi tấm lòng ta

(Áo Xuân, 1942)

Mặt khác, nó báo hiệu cho chủ đề « chết từ sơ ngộ », và Màu Hoa trên Ngàn sơ khai đã là Màu Hoa Cuối Cùng :
Lỡ từ lạc bước bước ra
Chết từ sơ ngộ Màu Hoa Cuối Cùng
(Chớp Biển, tr. 45)

Bùi Giáng, rất sớm, đã linh cảm rằng mình suốt đời đứng nguyên ở một tọa độ, xác định bởi một không gian Cố Quận và một thời điểm Nguyên Xuân :
Rồi tôi lớn, đi vào đời chân bước
Cỏ Mùa Xuân bị giẫm nát không hay
Chợt có lúc hai chân dừng một lượt
Người đi đâu ? Xưa chính ở chỗ này

(Chỗ Này, Mưa Nguồn, tr. 82)

Có một mùa xuân nào, tuần hoàn trong trời đất, cùng với niềm vui nào đó. Nhưng có một hạnh phúc khác, màu xuân khác không bao giờ trở lại với nhân gian :
Mưa Nguồn cũ quá xa rồi một trận
Ôi xuân xanh vĩnh biệt như thể nào
(…) Người viết mãi một màu xanh cho cỏ
Người viết hoài một màu cỏ cho xuân…

(Bài Ca Quần Đảo, tr. 22-23)

Rồi suốt đời, khi sáng suốt, khi cuồng điên, qua hằng vạn trang sách, người thơ chỉ làm hoài làm hủy một bài thơ, vẽ cho mình một chân dung duy nhất, như viết hoài một màu cỏ cho xuân.

Xuân mười sáu suốt bến xuân chìm tắt
Một bài thơ gieo suốt tự bao giờ

(Bài Ca Quần Đảo, tr. 11)

Năm mười sáu tuổi đã xảy ra biến cố gì trong đời tác giả làm chìm tắt mùa xuân ? Chúng ta không biết, chỉ biết là ông làm thơ từ tuổi ấy, khoảng 1942, tại Huế, theo lời ông kể ở đầu sách Lời Cố Quận.

Xuân về xuân lại xuân đi
Đi là đi biệt từ khi chưa về

Hai câu thơ đơn giản. Ngớ ngẩn mà thâm sâu. Vớ vẩn mà thần sầu.
Thâm sâu ở chỗ : lời nói tự hủy, tự lời bôi xóa lời. Câu thơ có nghĩa là : tôi vô nghĩa.
Thần sầu ở chỗ : không mấy ai thấy cái chốn thâm sâu.
Thơ Việt Nam nhiều câu hay. Nhưng hay kiểu Bùi Giáng, xưa nay có một.

*

Mưa Nguồn, tên sách là một từ ngữ, hình ảnh thông thường, như trong thành ngữ dân gian, chớp bể mưa nguồn.

Những trận mưa rừng núi là hiện tượng thiên nhiên quen thuộc, có lẽ Bùi Giáng đã nhiều lần chứng kiến cụ thể thời trai trẻ, khi chăn dê miền Trung du Trung Phước, khoảng 1946. Đây là những trận mưa giông lớn, ào ạt đổ xuống rất nhanh, nhất là vào mùa hè, gây ấn tượng mạnh. Mưa Nguồn có thể hiểu theo nghĩa đen.
Lại thêm nghĩa bóng : mưa móc, ân sủng dội xuống nơi cội nguồn cuộc sống, ào tuôn, « giáng » xuống một lần rồi thôi, nhưng cũng có thể trở lại, trong lẽ tuần hoàn, như lời chờ mong của Tản Đà : Nước đi ra bể lại mưa về nguồn, trong Thề Non Nước.

Cần hiểu thêm, chữ nguồn, ở quê Bùi Giáng, còn có nghĩa đời sống của dân tộc thiểu số ở miền trung du Trung Bộ, mà Bùi Giáng thường xuyên tiếp xúc. Họ thuộc nhiều chủng tộc, chủ yếu là người Gié Triêng và Ca Tu, mà cuộc đời hoang dã đã tạo ra và lưu lại nhiều ấn tượng sâu xa trong tâm thức Bùi Giáng. Cuộc trao đổi hàng hóa giữa hai miền xuôi ngược – ngày nay gọi là Kinh Thượng – đã để lại câu ca dao :
Ai về nhắn với nậu nguồn
Mít non chở xuống, cá chuồn chở lên

Nậu nguồn là những thương nhân chuyên môn buôn bán với Mạn Ngược. Và ở đây có thể phát âm hai vần ngùn/chùn theo giọng Quảng Nam của Bùi Giáng, cũng như Mưa Ngùn. Như vậy mới kết vần được hai câu ca dao địa phương khác, mà Tế Hanh hay Sơn Nam ưa tham chiếu :
Chim quyên xuống đất ăn trùn
Anh hùng lỡ vận lên ngùn (nguồn) đốt than

Thơ Bùi Giáng, có khi cần phải phát âm theo giọng tác giả, mới thú vị :
Chén trà sương sớm bên thềm
Vừa chờ chim hót vừa thèm chim (chiêm) bao
. (Chén Trà, báo Thời Văn, tr. 24)

Chim hót đối ngẫu với chim (chiêm) bao.

Chữ Nguồøn ở Bùi Giáng là một hình ảnh vừa quê mùa vừa uyên bác, tự nhiên mà tinh tế. Gốc Hán Việt là « nguyên », là nguồn cội, là nguồn sống, là Sơ Nguyên Ngọn Suối : con chim điên vì nhớ Suối vô cùng. Suối cũ Suối xanh Suối bờ mọc cỏ. Suối võ vàng em có hai tay Suối mừng nhìn thấy. Suối khóc suốt đêm bây giờ suối nín… (Gió Nguồn, Lá Hoa Cồn, tr. 75).

Suối ở đây là Nguồn Xuân Tinh Thể. Nhưng nói vậy là nói lắp, vì Xuân đã là Nguồn, và Suối đã là Xuân. Tiếng Anh rất hàm súc khi dùng một từ Spring để chỉ Xuân và Nguồn. Trong thơ Bùi Giáng, Xuân đồng nghĩa với Nguồn, như trong tiếng Anh. Nó là cõi uyên nguyên có trước Trời Đất, là « cái cửa khe huyền diệu » – « huyền tẫn chi môn » theo lời Lão Tử. Chữ « tẫn » Ngô Tất Tố diễn dịch là khe, mà có người « cắt nghĩa là giống cái, tức là mẹ đẻ của muôn vật. Đó cũng là một nghĩa ».

Có lẽ, từ đó hình ảnh khe, kết hợp với người Nữ, thường xuất hiện nơi thơ Bùi Giáng. Chữ môn nghĩa là cửa (nhân tạo), linh mục Dòng Tên, Claude Larre dịch là Porte (des secrètes merveilles) có lẽ, về sau đã gợi ý cho Bùi Giáng làm đoạn thơ nổi tiếng bắt đầu với hai chữ ngõ và cửa : _ Ngõ ban sơ, hạnh ngân dài
Cửa xô còn vọng điệu tài tử qua

Niềm vui, nghĩa sống con người đã xô cửa bước ra từ cõi ban sơ ấy, và ngân dài, âm vọng qua lời thơ của người tài tử. Nhưng về sau lại lỡ từ lạc bước bước ra… và tác gỉa, hay độc gỉa có thể tùy nghi ráp nối nhiều câu lục bát khác vào đoạn trên, như Tuệ Sĩ đã gợi ý trong một bài báo rất uyên bác, trên báo Văn 1973 :

Ta về ngóng lại mưa sa Giọt dài ly biệt nghe ra giọng chào Hoặc :
Em về giũ áo mù sa
Trút quần phong nhụy cho tà huy bay

Vân vân… Như đã nói : toàn bộ tác phẩm Bùi Giáng có thể xem như là một bài thơ duy nhất, một nét chữ lên đàng quẩn quanh. Và người đọc lý thú, vì cảm giác tham dự vào cuộc chơi, thậm chí là đồng tác.

Người đời thường trích dẫn mấy câu thơ hay, bề ngoài đơn giản, nhưng kỳ thật là phức tạp :

Hỏi tên ? Rằng biển xanh dâu
Hỏi quê ? Rằng mộng ban đầu đã xa
Gọi tên rằng một hai ba
Đếm là diệu tưởng, đo là nghi tâm.

(Chớp Biển, tr. 132)

Hai câu đầu là một hình ảnh từ chương. Câu sau đã khó hiểu hơn : một, hai, ba nghĩa là gì ? Hoặc ta cho là thơ cà chớn, không cần tìm hiểu ; hoặc ta tìm hiểu và tham chiếu vào Đạo Đức Kinh, lời Lão Tử : « Đạo sinh ra một, một sinh ra hai, hai sinh ra ba, ba sinh ra vạn vật » ; ý thức con người đong đưa giữa cái nghi và cái diệu : không nghi thì không có diệu, không nhờ cái diệu thì không giải tỏa được cái nghi. Đo và Đếm là hai thao tác của Tâm và Tưởng để tiếp xúc và nhận thức ngoại giới : đo cái liên tục và đếm cái gián đoạn. Nhưng còn là, là gì ? Là môi giới qua Lời Nói. Nhưng Lời Nói là gì ? Chúng ta trở về vị trí đong đưa sóng biển giữa Diệu và Nghi.

Hiểu thơ Bùi Giáng không phải lúc nào cũng đơn giản. Mà không hiểu, chưa chắc đã đơn giản.

Bàn về một chữ Xuân mà phải dàn xa dặm dài, như vậy phải biết ngừng lời, vì :
Thưa rằng nói nữa là sai
Mùa xuân đang đợi bước ai đi vào

(Chào Nguyên Xuân, Mưa Nguồn, tr. 25)

*

Tháng 5/1969, Bùi Giáng vào dưỡng trí viện Biên Hòa vì bệnh đã từ « cuồng nhẹ chuyển sang cuồng nặng », các bác sĩ trong viện đã hỏi ông về hình ảnh cô Em Mọi Nhỏ thường thấy trong thơ, và họ kể lại :
« Trong thời trai trẻ, đi kháng chiến, một chiều nọ, mệt, đói, anh đang lê từ bước một với chiếc ba lô khá nặng sau lưng, thì vừa quẹo một bước đường mòn, anh chợt thấy một thiếu nữ thiểu số đang giặt áo bên bờ suối, anh vừa dừng chân thì « bông hoa rừng » nó cũng vừa ngừng tay giặt, mỉm cười với anh, và niềm nở hỏi chào anh. Anh tưởng chừng mình đang lạc vào suối Đào Nguyên, và hình ảnh này vẫn không phai trong tâm khảm » .

Câu chuyện, nếu quả có xảy ra thực cũng nên xem như một giai thoại và một biểu tượng. Người Em Mọi Nhỏ xuất hiện thường xuyên trong đời thơ Bùi Giáng, suốt một nửa thế kỷ khói lửa và biển dâu, không dễ gì giải thích được bằng một nụ cười sơn cước. Cuộc đời, đời ai và đời gì, cũng không đơn giản như vậy và đời Bùi Giáng lại có phần phức tạp hơn bình thường.

Gái Núi, hay Em Mọi Nhỏ, còn có tên Duồng mô Din, là một ẩn dụ hữu cơ trong thơ Bùi Giáng, và có khả năng cấu trúc thi hứng như một hình ảnh Đầu Nguồn, một sử lịch sơ khai, một Suối Xuân diễm tuyệt như đoạn trên đã nói.

Gái Núi là một khai thị, khai tâm, khai tứ, khai từ :
Em từ Mọi Nhỏ thanh tân
Mười hai con mắt thiên thần mở ra

(Mười Hai Con Mắt, tr. 71)

Mở mắt để tiếp thu mùa Xuân Tinh Thể
Mọi là Em, Mọi Sơ Xuân
Ban Sơ núi đỏ chào mừng non xanh
(Bài Ca Quần Đảo, tr. 34)

Em Mọi là quần thể, lập thành xã hội sơ khai một ảo ảnh mà nhà thơ đã tiếp thị thời hoa niên, và dần dà ngày một ngày hai đã cấu trúc thành một triết lý uyên nguyên, cấu trúc nguồn thơ và tiềm năng sáng tạo :
Em ở trong rừng
Mọi chị mọi em
Sinh bình quay quần
Suốt mấy mùa xuân
Một thời thơ dại
Em là em mọi
Em ở đâu rồi

(Tặng Em Mọi, Mười Hai Con Mắt, tr. 215)

Mọi chị mọi em, vị chi là nhiều em mọi. Kết hợp với mấy mùa xuân, thời thơ dại, hình ảnh Em Mọi ở đây, cũng như ba người con gái chiêm bao ở bờ cỏ Phi Châu ở nơi khác, không phải là hoang tưởng tình ái nam nữ song phương, kiểu Kinh Thượng giao duyên, như trong những bài hát Bông Hoa Rừng, hay Nụ Cười Sơn Cước. _ Thậm chí trong thơ Đinh Hùng :
Nàng lớn lên giữa mùa xuân hoa cỏ
Nửa linh hồn u ám bóng non xanh
Ngoài thiên nhiên nở bừng thân mỹ nữ
Nàng yêu ta, huyền hoặc mối kỳ tình
(…)
Chúng tôi gặp nhau bên dòng suối ngọt
Làm đôi người cô độc thuở sơ khai
Nàng bâng khuâng đốt lửa những đêm dài
Ta từng buổi bơ vơ tìm bộ lạc
Nàng là Gái Muôn Đời không đổi khác
Bộ ngực tròn nuôi dòng sống đương xuân

(Người Gái Thiên Nhiên, trong Mê Hồn Ca)

Người Gái Thiên Nhiên ở Đinh Hùng là một giấc mơ hiện đại, với bộ ngực tròn trên tấm thân mỹ nữ, như trong những tiết mục trình diễn thi hoa hậu ở Âu Tây.

Nàng bâng khuâng đốt lửa những đêm dài là hoang tưởng lãng mạn từ Chateaubriand hồi đầu thế kỷ 19 còn ngân dài qua văn học, đến Đinh Hùng và nhiều tác gia khác.

Nhưng Bùi Giáng đã gặp thơ Đinh Hùng, và thân thiết với cá nhân Đinh Hùng. Bùi Giáng viết nhiều bài khảo luận về các nhà thơ đương thời và quen biết với mình, nhưng dường như chỉ tha thiết với thi phẩm của hai người, là Tuệ Sĩ và Đinh Hùng :
« Đinh Hùng Mê Hồn Ca muốn nhảy vọt một trận. Ông muốn sống lại tâm tình người nguyên thủy. Ông muốn mang linh hồn nguyên thủy về đối diện với xã hội văn minh… » (Thi Ca Tư Tưởng, tr. 132).

Tuy nhiên giữa cuộc gặp gỡ đó, có điều khác nhau : Nguyên Thủy trong thơ Đinh Hùng chỉ làm đề tài thi ca, cùng lắm là một ẩn ước. Ở Bùi Giáng là khối ẩn ức, hiểu theo nghĩa đẹp mà Bùi Giáng gọi là Mnemosyne, niềm nhớ nhung sâu kín, nỗi u hoài thao thiết, nguồn thi hứng chủ đạo. _ Đinh Hùng đã có những câu thơ tình diễm lệ :
Thương nhau gói trọn hồn trong áo
Mất nhau từ trong tà lụa bay

(Hờn Giận, Đường vào Tình Sử)

Những nét diễm tình này, không thấy ở Bùi Giáng, cho dù về sau, Bùi Giáng cũng có vài lời thơ mang âm hao Đinh Hùng :
Em ở trong rừng một buổi xưa
Ngẫu nhiên tao ngộ gió sang mùa
Hai bờ lãnh địa đau lòng gọi
Sầu suốt giang sơn vọng tiếng thừa

Em ở trong rừng em cũng đi
Xuân tàn lửa hạ đốt trang ghi
Rừng thiêng sự tích mờ vân thạch
Vĩnh biệt lâm tuyền em bỏ đi

Mất hết rừng xanh suối ngọc rồi
Em từng là mọi mộng khơi vơi
Rừng xanh nắng biếc em cười nói
Một thoáng bình sinh giữa bốn trời

(Em Mọi là Em, Chớp Biển, tr. 84-85)

Rừng xanh, rừng thiêng, lâm tuyền ở đây không hẹn hò kỳ ngộ như ở Đinh Hùng, mà là nỗi tổn thương không cứu vãn.

Một trần gian lạc dấu Mùa Xuân :
Còn ngọn suối ngọn sông nào mất ngọn
Ngọn nguồn đi trên không ngọn không nguồn
Tôi leo mãi những ngọn đồi xa ngọn
Về xa xuôi những thung lũng xa nguồn
Nằm giữa phố giữa trưa tôi vẽ bóng
Con chuồn chuồn cuối hạ đón đầu thu
Con châu chấu cuối thu về lóng cóng
Sắp sang đông từ giã nguyệt hư phù

(Bài thơ Hay Nhất, Chớp Biển, tr.87)

Ở đây, một năm chỉ còn lại ba mùa, vì rừng đã thiêu rụi mùa xuân :
Em là em mọi
Xưa ở trong rừng
Nay rừng cháy hết
Em lạc ở đâu

(Tặng em Mọi, Mười Hai Con Mắt, tr. 214)

Trong chủ đề Người em Mọi, đời sống sơ nguyên, Mê Hồn Ca của Đinh Hùng không mang lại ảnh hưởng gì cho nguồn thơ Bùi Giáng lúc đó đã định hình, vững chắc, nhưng có lẽ đã vun đắp thêm vào niềm tự tin trong thi hứng của Bùi Giáng. Trường hợp tư tưởng phương Tây, như của Heidegger, có lẽ cũng tác dụng như vậy, khi Bùi Giáng tiếp cận Heidegger. Triết gia Đức này bình luận thơ Holderlin, đề cập đến nguồn gốc vũ trụ, thời Hỗn Mang (Chaos) và Định Danh (Nomos) và tính hoang dã thần thánh (sainte sauvageté) đâm chồi nảy lộc, những hoang dã linh thiêng (sauvagetés sacrées), hoang dã vụng về trong thi tập Les Titans .

Và có lúc, Bùi Giáng đã đẩy niềm u hoài tiền sử của mình lên xa hơn nữa trong thời gian, qua hình ảnh Đười Ươi – người chưa thành người :
Ta về rũ áo đười ươi
Trút tờ phong nhã cho người phụ nhau
(Ta Về, Thơ Bùi Giáng, tr. 198)

Đi vào cảnh giới si mê
Gọi đười ươi dậy nhe răng ra cười

(Nhe Răng u buồn, trong Sa Mạc Trường Ca)

Bùi Giáng có bài thơ tổng kết đời mình :
Ấy là thơ thuở chưa điên
Ở trong dấu ngoặc quàng xiên reo cười
Bây giờ xoang điệu đười ươi
Điệu hoa lầu các ngậm ngùi dấn thân

(Thuở Chưa Điên, Thơ Bùi Giáng, tr. 86)

Hai chữ Đười Ươi ở đây sao mà bùi ngùi, thê thiết !

Đười Ươi Thi Sĩ, nhiều lần Bùi Giáng tự xưng như thế, để bày tỏ niềm hoài vọng tìm lại thiên tính của con người, khi chưa lập thành xã hội, trong cõi trời đấtSơNguyên. _ThuởUyênNguyênấy,làmùaXuân của Đất Trời, mùa Xuân của Con Người.
Nói chuyện Mùa Xuân trong thơ Bùi Giáng mà chưa lên tận Ngọn Nguồn để diện kiến Đười Ươi, thì chưa vui.

*

Viết đến đây, chợt về đôi kỷ niệm, chung quanh ngày Tết và mùa Xuân, hiểu theo nghĩa thông thường, không ẩn ý hay biểu tượng, triết lý gì. Ba ngàyTết, ba tháng Xuân, và hình ảnh Tuổi Xuân, như một cành hoa mai, nở một lần trong thơ Bùi Giáng :
Xuân này em có về không
Nhành mai cố quận nở bông dịu dàng

(Thơ Bùi Giáng, tr. 85)

Tiếp theo là một hình ảnh khác của ngày Tết Nguyên Đán :
Mồng ba Tết ra đường con gặp
Một trẻ em đi bán đậu phụng rang
-“Thầy mua giúp ! Đầu năm, dịp Tết”
Con mua nhiều, rồi nước mắt chứa chan

Vì con biết ngày Mồng ba một dịp
Không còn về cho bao đứa trẻ con
Bán đậu phụng hay lau giày lau dép
Đã lang thang đầu gối rụng mỏi mòn.
(…) _ Hỡi Thượng Đế ! Cúi đầu con thưa lại
Ở trần gian ai cũng khổ liên miên
Người đã dựng cảnh tù đày đọa mãi
Để làm gì ? Cho sáng nghĩa Vô Biên ?

(Chớp Biển, tr. 127-128)

Bài thơ hé mở một góc độ khác trong tâm hồn Bùi Giáng : khía cạnh xã hội, nhân đạo trong thơ ông, xuất hiện ngay ở tập thơ đầu, nhưng càng ngày càng rõ nét về sau. Nhất là từ khoảng 1970, trong đời sống lang thang bên hè phố, ông chung đụng với nhiều lớp người cùng khổ, chủ yếu là trẻ em nghèo khó và côi cút, mà ông rất mực yêu thương, chia sẻ từng miếng cơm manh áo. Đây là thời gian ông ý thức rõ tình người trong cơ khổ :
Anh vẫn tưởng đầu đường thương xó chợ,
Ai có ngờ xó chợ cũng thương nhau
Ôi đầu đường ôi xó chợ nơi đâu
Là nơi đó chốn kia anh rất rõ
Trong máu me từng khoảnh khắc sơ đầu

(Anh vẫn Tưởng, Bài Ca Quần Đảo, tr. 48)

Trong cảnh dân tộc điêu linh và xã hội lầm than, thì những phong tục hình thức ngày xuân trở thành vô nghĩa :
Mỗi mùa xuân lá trổ bông
Quên tờ cung chúc cũng không hề gì

(Huế làm Thơ, Bài Ca Quần Đảo, tr. 44)

Trong chừng mực nào đó – xin nói rõ : trong chừng mực nào đó – Bùi Giáng thuộc về thế hệ thanh niên không có mùa xuân, mà Tạ Ký (1928-1979), một nhà thơ xuýt xoát đồng tuế và đồng hương với Bùi Giáng, gọi là Thế Hệ Bốn Lăm :
Chúng tôi :
Thế hệ bốn lăm
Vui chưa bao nhiêu, nhiều lúc khóc thầm
Một phần tư thế kỷ
Bốn lăm ! bốn lăm
Những kẻ ra đi, những kẻ đang nằm
Những kẻ chết, những kẻ còn vất vưởng

Có lần nhà thơ Tạ Ký mô tả làng Trung Phước quê hương mà Bùi Giáng gọi chung là Cố Quận, chìm trong khói lửa :
Con lạc mẹ, bao đêm chồng khóc vợ
Măng bẻ rồi, tre không kín niềm quê

Và ngày Tết, mùa Xuân với thế hệ ông :
Cười nghiêng núi thẳm xuân gian khổ
Khóc đứng quê xa tết dạn dày (…)
Có những con người không nói hết
Căm căm thế sự nhíu đôi mày
Cố tri dăm đứa nghèo xơ xác
Ăn chực nằm chờ khắp đó đây

Nhà văn Võ Phiến, trên báo Bách Khoa 1963, trong bài viết về Đỗ Tấn, cùng quê, đã mô tả thế hệ này, trong đó có mình : “Chừng ấy biến đổi dập dồn vào một thế hệ (…) mới lớn lên đã gặp ngay cơn biến động. Trong những năm đáng lẽ nồng nhiệt hăng say nhất của đời họ, thì một niềm tin vừa nhóm lên liền bị phá vỡ, một giấc mơ vừa thành hình vội vàng bị đánh tan. Hy vọng nổ tan tành, liên tiếp, dễ như quả bóng cao su xanh đỏ của trẻ con” .

Dĩ nhiên đây là tâm trạng của một lớp trung niên thi sĩ, ở vào một địa phương, chúng ta không nên khái quát. Thiên hạ thiếu gì người lập thân, lập công, lập danh, lập tài sản, nhờ vào cái mà Võ Phiến gọi là “biến động”, người khác gọi là Lịch Sử, và Bùi Giáng gọi là Sử Lịch.

Nhà thơ Hoàng Trúc Ly, trong lứa tuổi đó, và thân thiết với Bùi Giáng, có câu thơ được truyền tụng một thời :
Mùa Xuân còn gì thưa em
Sáu dây rét mướt chưa mềm trăng khơi

Và Phạm Công Thiện cũng gần gũi với Bùi Giáng, năm 1964, dạy học ở Đà Lạt, có bài thơ Xuân được bạn bè yêu thích :
Mùa Xuân bay thành khói
Tôi ca hát một mình
Suốt đời không biết nói
Nước chảy tràn con kinh

Tạ Ký lúc ấy cũng dạy ở Đà Lạt, rất thích bài thơ này, nhưng bực mình khi nghe một bài hát thời thượng, phổ nhạc thơ Kim Tuấn :
Anh cho em mùa Xuân
Nụ hoa vàng mới nở
Mùa Xuân nào nhung nhớ (…)

Ông bực vì cho là thơ xạo và xảo, vì anh làm quái gì có mùa Xuân mà cho ai, hay cho em ? (dù rằng ở cõi đời này, yêu nhau có khi là cho nhau những cái mình không có). _ Trong tâm trạng này, Tạ Ký có bài thơ Xuân tặng Phạm Công Thiện :
Trời mùa đông rừng núi
Đời mùa đông vô cùng
Hút thuốc trong bóng tối
Khói có bay lên không ?

Vào thời điểm ấy, Đà Lạt 1964, Phạm Công Thiện, có đọc cho tôi nghe câu thơ mới làm :
Cô đơn về trắng sương rừng
Tôi nghe tiếng hát hoang đường nửa đêm.

Pháp, 1984 : bài thơ được in lại trong một album đẹp mà anh tặng tôi. Câu thơ xưa đổi lốt :
Rắn trườn vỡ trứng chim rừng
Tôi nghe tiếng hát hoang đường nửa đêm.

Rắn : vì tác giả tuổi Tỵ (1941)

Giữa hai thoại, không biết câu nào hay hơn. Tôi kể lại chuyện này, vì thấm thoát đã tròn hai mươi năm. Và bốn mươi năm.
Đây là thời gian chúng tôi bắt đầu tiếp cận thơ Bùi Giáng.

Một mùa xuân xa…
Xa.

Bùi Giáng là một nghịch lý.
Ông là một tác gia hàng đầu, một nhà thơ lớn trong văn học Việt Nam hiện đại, đã sống, làm thơ và qua đời, bên lề dòng văn học chính thống. Rồi trong những điều kiện lịch sử nhất định, thơ ông được truyền tụng, truyền khẩu, tạo nên một hiện tượng xã hội và chính trị Bùi Giáng, vào ba thập niên cuối cùng của thế kỷ hai mươi.

Tác gia Bùi Giáng, và nhà thơ Bùi Giáng đích thực, bị chen lấn giữa những huyền thoại Bùi Giáng. Và những kẻ mến yêu Bùi Giáng đầy thiện chí, đã nhiệt tình viết bài ca ngợi, càng làm rối mù thêm tọa độ của ông trên văn đàn, thêm phần tơ chỉ rối chiêm bao.

Bùi Giáng cả đời chăm chỉ đặt hai bàn chân, chân trái và chân mặt, bên lề chính trị và xã hội, nhưng đã lừng danh – phần nào đó – nhờ những điều kiện xã hội và chính trị. Đây là một nghịch lý, giới hiện sinh một thời có thể gọi là phi lý.

Bài này dĩ nhiên là không có tham vọng giải quyết nghịch lý nói trên. Nó thoạt tiên chỉ là một bài báo Xuân. Nhưng lần theo ý xuân đến thượng nguồn thơ Bùi Giáng, người đọc có thể tìm lại được một trong nhiều sợi tơ mành xuyên qua thi phẩm và tư tưởng Bùi Giáng.

Niềm xuân cố quận tê tê / Được chăng góp nhặt lời quê dông dài…
Người rằng :
Nói nữa là sai
Mùa Xuân đang đợi bước ai đi vào

.

Đặng Tiến Orléans, Toussaint 2003

*

Thơ Bùi Giáng trích từ : Mưa Nguồn, 1962 ; Lá Hoa Cồn, 1963 ; Bài Ca Quần Đảo, 1973 ; Thi Ca và Tư Tưởng, bản in lại 1998 ; Thơ Bùi Giáng, Montreal, 1990 ; Chớp Biển, 1996 ; Mười Hai Con Mắt, 2002 ; Báo Văn, Sài Gòn, 5/1973 ; Báo Thời Văn, TPHCM, số 19, 1997. Có câu ghi theo trí nhớ.

*

Phụ chú 5/11/2003

Người thân Bùi Giáng, là Thanh Hoài, Sài Gòn, đọc bản thảo bài này, đã minh xác một điểm : Bùi Giáng gặp Sơn Nữ không phải lúc đi Bộ Đội, như đã kể lại tại Biên Hòa, năm 1969, mà một năm sau khi giải ngũ. Vào năm 1950, ông từ khu Năm ra khu Tư để thăm nuôi người em là Bùi Tường đang ăn học, phải đi bộ hơn một tháng mới đến nơi. Trong chuyến về, dọc Trường Sơn, Bùi Giáng đã gặp một cô « Gái Núi » đang tắm giặt bên bờ suối. Hình ảnh Nàng Tiên Một Lần này in sâu vào tâm khảm và thường tái hiện dưới tên Người Em Mọi Nhỏ. Khoảng 1990, Bùi Giáng có bài thơ nhắc lại chuyến hành trình, và cuộc gặp gỡ có phần hư cấu :

Đường rừng
Chuyến đi ra Bắc năm xưa
Đường rừng thác đổ nguồn mưa bạt ngàn
Bốn mươi năm lẻ chạy quàng
Té lên té xuống lầm than cũng nhiều
Bảy mươi ba tuổi xế chiều
Còn nghe nức nở hoang liêu đường rừng

(Kỷ niệm chuyến đi năm 1950)
Trích từ Tâm Sự Tuổi Già .

Chiêm bao
Em nằm ngủ giữa núi rừng
Tôi đi ở giữa nỗi mừng nỗi vui
Lội qua khe suối dưới trời
Ngắm mây ngắm gió sáng ngời bình minh
Thấy em nằm ngủ một mình
Ngồi xuống bên cạnh thình lình hôn em.

Cả hai bài thơ còn nằm trong di cảo, chúng tôi công bố để mừng Xuân bạn đọc. Và trân trọng cảm ơn bạn Thanh Hoài, người chính thức giữ tác quyền, đã vui lòng cung cấp.

Catégories
Thơ

Đình Thọ (BP69)

Hoa mai Forsithya
Cuối tháng ba hoa nở
Vàng tươi Forsithya
Khí trời âm ấm trở
Chồi xuân chơm chớm đâm .

Hoa cúc Pâquerettes
Li ti lốm đốm trắng
Chi chít trên cỏ xanh
Lè tè nhưng vẫn đứng
Dẫu chân ai vô tình
Hoa chẳng ngại gió đâu.

Làm vườn
Cuối tháng ba ra vườn cuốc đất
Forsithya nở vàng hoa
Lê táo đâm chồi non nỏn lá
Quên đi buốt giá những ngày qua .

Mùa Xuân
Mưa phùn tưới tẩm đất
Tốt tươi cây cỏ xanh
Vạn vật hồi sinh lại
Vui mừng Trời Đất Xuân .

Đình Thọ
Liege 30/03/2005

Catégories
Thơ

Mắt màu nâu – HKKM

Xin giới thiệu với các bạn tập thơ Mắt Màu Nâu chị Hồng Khắc Kim Mai sáng tác trong thời kỳ học ở Lycée Blaise Pascal. Thi tập này được xuất bản vào năm 1965 tại Saigon.

http://dactrung.net/tacgia/default.aspx ?TacGiaID=IXZHVWwQAeg8GR7iXA5k1A%3d%3d

.

Tỏ tình

Em có cái mặt tình chi rất lạ
Miệng nói cười và tay thì quậy nước
Anh ngồi nhìn không nói nhưng anh hiểu
Anh ly chanh đường xoáy tán hồn sôi
Em kêu chanh chua thì châm thêm dường
Ai không biết ! nhưng anh thích chua chanh
Thanh thanh xanh võ có xơ có múi
Chưa ăn đã thèm giọt rớt giọt rơi Em thấy anh chỉ ngồi nhìn ít nói
Làm em ngượng núc nửa ly chanh đường
Anh mĩm chi gật đầu vô tội vạ
Uống nốt nửa ly kêu say quá trời Nước chanh mà say ? anh chỉ tổ xạo
Anh xoay cái ly, cái ly quay mòng mòng
Anh nói anh say y cái ly
Vì nước miếng em nhu chất rượu nồng

Em chới với vi lời anh quá giỏi
Em quệt môi thích anh câu tỏ tình

Hồng Khắc Kim Mai – 1960/Mắt màu Nâu/1965

.

Thao thức

Cho em xin một ánh mắt thiết tha trìu mến
Và nửa vòng tay
Nửa vòng tay anh choàng qua thân em
Nửa vòng tay em chờ đợi
Và chỉ thấy trong mơ anh ơi
Cho em xin một nụ cười âu yếm trên môi anh
Đôi môi thường hôn em trong giấc ngủ
Đẻ tỉnh dậy em mới biết mình đang khóc
Nước mắt chảy dài thấm ướt môi trinh Em hoảng hốt kêu tìm trong bóng tối
Trả về em mộng mới thành hình
Đẻ thấy anh cười để nghe anh nói
Hai bàn tay anh ghì chặt vai em
Những lời yêu thương thì thầm bên gối
Những lời hò hẹn mang tiếng dương cằm
Những lời yêu đương tha thiết
Dù chỉ là aỏ mộng như là anh đã biết

Em thèm thuồng hơi thở ấm canh dài
Đẻ gục mặt vào hồn anh say ngủ
Cho em xin một tình yêu chung thủy
Không chỉ kết thúc bằng một lễ vu quy
Em khẩn thiết van xin cùng thượng đế
Cho giấc mộng em đời em biến thành thực tế
Vì mộng hay tàn buồn lắm lắm anh ơi
Một mình em thao thức tiếc đêm vơi…

Hong Khac Kim Mai/1962/Mat Mau nau/1965

.

Bụi đời mười phương

Vác một đàn con trên vai
Ta đi bụi đời
Chín hướng mười phương

Trạm đầu dừng chân
Chốn Ngọc Hà lừng danh xóm lưới
Bến dứa trổ gai
Thân tù tội
Ngày cơm cháy lót lòng không đủ no
Đêm nằm co sàn gạch
Lạnh rút gân nghe con khóc òa
Mẹ đứt ruột
Tiếng ù ơ rưng rức đêm thâu
Con muỗi buồn xo
Con muỗi vo ve

Vác một đàn con trên vai
Lôi thôi lếch thếch
Thân ăn mày
Tự đáy biển trồi lên đầu non
Mẹ nhìn con
Mây kêu nhức, gió rên buồn, sương kêu ốm
Con nhìn mẹ
Xơ xác liễu hồn
Quẹt nước mắt vắt nguồn thơ
Ăn qua bữa
Miếng tủi miếng thắt
Mặn lạt tình thâm

Bằng đôi chân của khủng long
Bằng đôi cánh đại bàng
Bằng trái tim gà mẹ
Ta áp đảo biển đông
Dọn đường thế hệ
Đưa con đến xứ hào quang
Rộng nhìn năm châu
Nở bừng trí tuệ

Thấm thoát mười sáu năm
Ta tất bật bụi đời
Quên thời gian quên phấn quên son
Hôm nay nghe con ra trường
Ta rộn ràng
Thấp thỏm soi gương
Mới thấy hoang tàn đời dâu biển trên nét mặt
Mới giựt mình
Thấm mệt
Tuổi xuân đã tiêu ma

Hôm nay con mừng vui
Ai cũng mừng vui
Riêng ta
Ta đứng bùi ngùi
Riêng ta
Ta đứng bồi hồi
Nghe loa xướng danh tên con
Tân khoa tiến sĩ
Mẹ òa khóc
Tưởng gọi đúng tên mình

Hồng Khắc Kim Mai

.

Trăng Và Biển

Trong bóng trăng xưa có ánh vàng
Ngân nga xa vắng tiếng thời gian
Thuở trời thắp sáng vòm sắc biếc
Nhạc vỗ đêm trăng sóng ngút ngàn

Sóng như sóng nước sóng biển khơi
Ru vầng trăng ngọc bọt tung rơi
Nghìn năm mưa gió trăng còn mãi
Biển vẫn nằm say sóng ru hời

Mây tím bay qua dãy núi hồng
Chiều như lãng đãng tiếng tơ rung
Trăng treo vầng nguyệt, hồn treo gió
Biển mặn hương nồng biển mênh mông

Trăng có thở than nét úa tàn ?
Sóng theo gió nắng có hoa râm ?
Sóng gầm trên biển nghìn thương nhớ
Giọt nước vung lên lệ ứa tràn

Hồng Khắc Kim Mai

Catégories
Thơ

Vô danh


… ?

Răng mà cứ theo tui hoài rứa
Cái ông ni mới dị chưa tề
Sáng, trưa, chiều hai buổi đi về
Đưa với đón làm chi không biết!


Ôi đôi mắt chi mà tha thiết,
Đừng nhìn, làm ngượng bước tui đi
Lá thư tình ông gửi làm chi
Ba mạ biết, rầy la tui chết


Ông tán tỉnh làm chi không biết
Tui nhu ma, nhu quỷ dưới âm ty
Nói hoài lời hoa mỹ làm chi
Tui còn nhỏ, chuyện tình răng biết được.


Tội tui lắm, cách cho vài bước
Đừng đi gần, hai kẻ sóng đôi
Xa … xa cho kẻo bạn tui cười
Mai vô lớp cả trường dị nghị.


Theo chi rứa, người răng không biết dị !
Thôi được rồi đưa lá thơ đây
Mai tan trường, đợi ở gốc cây
Tui sẽ tới trả lời cho biết.


Vô danh
Catégories
Hương Quê

Ký ức về những bài học thuộc lòng thời tiểu học

Dân miền Nam, những ai bây giờ chừng 55 tuổi trở lên, chắc đều nhớ rõ cách tổ chức độc đáo ở các lớp bậc tiểu học cách đây hơn bốn thập niên. Hồi đó, cách gọi tên các lớp học ngược lại với bây giờ, theo thứ tự từ lớn đến nhỏ. Lớp Năm là lớp Một ngày nay, rồi đến lớp Tư, lớp Ba, lớp Nhì, trên cùng là lớp Nhứt. Lớp Năm, tức là lớp thấp nhất, thường do các thầy cô giỏi nhất hoặc cao niên, dồi dào kinh nghiệm nhất phụ trách. Sở dĩ như vậy là vì bậc học này được xem là vô cùng quan trọng, dạy học trò từ chỗ chưa biết gì đến chỗ biết đọc, biết viết, biết những kiến thức cơ bản đầu tiên, nghĩa là biến từ chỗ không có gì đến chỗ bắt đầu có.

Học trò, không phân biệt giàu nghèo, khi đến lớp chỉ được dùng một thứ bút duy nhất, là bút ngòi lá tre. Gọi là lá tre bởi vì bút có cái ngòi có thể tháo rời ra được, giống hình lá tre nho nhỏ, khi viết thì chấm vào bình mực. Bình mực, thường là mực tím, có một cái khoen nơi nắp để móc vào ngón tay cho tiện. Thân bình bên trong gắn liền với một ống nhựa hình phểu dưới nhỏ trên to để mực khỏi sánh ra theo nhịp bước của học trò. Khi vào lớp thì học trò đặt bình mực vào một cái lổ tròn vừa vặn khoét sãn trên bàn học cho khỏi ngã đổ. Bút bi thời đó đã có, gọi là bút nguyên tử, là thứ đầy ma lực hấp dẩn đối với học trò ngày ấy, nhưng bị triệt để cấm dùng.

Các thầy cô quan niệm rằng rèn chữ là rèn người, nên nếu cho phép học trò lớp nhỏ sử dụng bút bi sớm, thì sợ khi lớn lên, chúng sẽ dễ sinh ra lười biếng và cẩu thả trong tính cách chăng. Mỗi lớp học chỉ có một thầy hoặc một cô duy nhất phụ trách tất cả các môn. Thầy gọi trò bằng con, và trò cũng xưng con chứ không xưng em với thầy. Về việc dạy dỗ, không thầy nào dạy giống thầy nào, nhưng mục tiêu kiến thức sau khi học xong các cấp lớp phải bảo đảm như nhau. Thí dụ như học xong lớp Năm thì phải đọc thông viết thạo, nắm vững hai phép toán cộng, trừ, lớp Tư thì bắt đầu tập làm văn, thuộc bảng cửu chương để làm các bài toán nhân, chia… Sách giáo khoa cũng không nhất thiết phải thống nhất, nên không có lớp học giống lớp nào về nội dung cụ thể từng bài giảng.

Cứ mỗi năm lại có các ban tu thư, có thể là do tư nhân tổ chức, soạn ra những sách giáo khoa mới giấy trắng tinh, rồi đem phân phối khắp các nhà sách lớn nhỏ từ thành thị cho chí nông thôn. Các thầy cô được trọn quyền lựa chọn các sách giáo khoa ấy để làm tài liệu giảng dạy, miễn sao hợp với nội dung chung của Bộ Giáo dục là được.

Tuyệt nhiên không thấy có chuyện dạy thêm, học thêm ở bậc học này nên khi mùa hè đến, học trò cứ vui chơi thoải mái suốt cả mấy tháng dài. Các môn học ngày trước đại khái cũng giống như bây giờ, chỉ có các bài học thuộc lòng trong sách Việt Văn, theo tôi, là ấn tượng hơn nhiều.

Đó là những bài thơ, những bài văn vần dễ nhớ nhưng rất sâu sắc về tình cảm gia đình, tình yêu thương loài vật, tình cảm bạn bè, tình nhân loại, đặc biệt là lòng tự tôn dân tộc Việt. Tôi còn nhớ rõ trong sách Tân Việt Văn lớp Năm có bài học thuộc lòng thật hay về bóng đá mà hồi đó gọi bằng một từ rất hoa mỹ, là túc cầu :
.

TRẬN CẦU QUỐC TẾ

Chiều chưa ngã, nắng còn gay gắt lắm
Hai đội cầu hăng hái tiến ra sân
Tiếng hoan hô thêm dũng mãnh bội phần
Để cổ võ cho trận cầu quốc tế.
Đoàn tuyển thủ nước nhà hơi nhỏ bé
Nếu so cùng cầu tướng ở phương xa
Còi xuất quân vừa lanh lảnh ban ra
Thì trận đấu đã vô cùng sôi nổi.
Tiền đạo ta như sóng cồn tiến tới
Khi tạt ngang, khi nhồi bóng, làm bàn
Khiến đối phương thành rối loạn, hoang mang
Hậu vệ yếu phải lui về thế thủ
Thiếu bình tỉnh, một vài người chơi dữ
Nên trọng tài cảnh cáo đuổi ra sân
Quả bóng da lăn lộn biết bao lần
Hết hai hiệp và…đội nhà đã thắng
Ta tuy bé nhưng đồng lòng cố gắng
Biết nêu cao gương đoàn kết đấu tranh
Khi giao banh, khi phá lưới, hãm thành
Nên đoạt giải dù địch to gấp bội…

Bài học thuộc lòng này, về sau tôi được biết, lấy cảm hứng từ chiếc cúp vô địch đầu tiên và duy nhất cho đến bây giờ của Việt Nam tại Đông Á Vận Hội trên sân Merdeka của Malaysia vào cuối thập niên 50, với những tên tuổi vang bóng một thời như Tam Lang, Ngôn, Cù Sinh, Vinh “đầu sói”, Cù Hè, Rạng “tay nhựa”… Tuy không biết chơi bóng đá, nhưng thằng bé là tôi lúc đó rất thích bài học thuộc lòng này nên tự nhiên…thuộc lòng luôn.

Càng đọc càng ngẫm nghĩ, đây đâu phải là bài thơ chỉ nói về bóng đá mà thôi. Nó là bài học đoàn kết của một dân tộc tuy nhỏ bé nhưng gan lỳ, bất khuất khiến cho cả thế giới phải ngước nhìn bằng đôi mắt khâm phục. Bạn thấy lạ lùng chưa, chỉ một bài thơ ngắn nói về một thứ trò chơi thôi, mà lại chứa đựng biết bao nhiêu điều vĩ đại mà những lời đao to búa lớn ồn ào chắc chi đã làm được. Nói về môn Lịch sử, hồi đó gọi là Quốc sử, đã có sẵn một bài học thuộc lòng khác :
.

GIỜ QUỐC SỬ

Những buổi sáng vừng hồng le lói chiếu
Trên non sông, làng mạc, ruộng đồng quê,
Chúng tôi ngồi yên lặng, lắng tai nghe
Tiếng thầy giảng khắp trong giờ Quốc sử.
Thầy tôi bảo :
“Các con nên nhớ rõ,
Nước chúng ta là một nước vinh quang.
Bao anh hùng thưở trước của giang san,
Đã đổ máu vì lợi quyền dân tộc.
Các con nên đêm ngày chăm chỉ học,
Để sau này mong nối chí tiền nhân.
Ta tin rằng, sau một cuộc xoay vần,
Dân tộc Việt vẫn là dân hùng liệt.
Ta tin tưởng không bao giờ tiêu diệt,
Giống anh hùng trên sông núi Việt Nam.
Bên những trang lịch sử bốn ngàn năm,
Đầy chiến thắng, vinh quang và hạnh phúc”

Hình ảnh ông thầy dạy Sử trong bài học thuộc lòng hiện lên, nghiêm nghị nhưng lại thân thương quá chừng, và bài Sử của thầy, tuy không nói về một trận đánh, một chiến công hay một sự kiện quá khứ hào hùng nào, nhưng lại có sức lay động mãnh liệt với đám học trò chúng tôi ngày ấy, đến nỗi mấy chục năm sau chúng tôi vẫn nhớ như in. Lại có bài song thất lục bát về ông thầy dạy Địa lý, không nhớ tác giả là ai, nhưng chắc chắn tựa đề là “Tập vẽ bản đồ”, phía lề trái còn in cả hình vẽ minh họa của Quần đảo Trường Sa và Hoàng sa :
.

TẬP VẼ BẢN ĐỒ

Hôm qua tập vẽ bản đồ,
Thầy em lên bảng kẻ ô rõ ràng.
Ranh giới vẽ phấn vàng dễ kiếm,
Từ Nam Quan cho đến Cà Mau.
Từng nơi, thầy thuộc làu làu,
Đây sen Đồng Tháp,
đây cầu Hiền Lương. Biển Đông Hải,
trùng dương xanh thẳm,
Núi cheo leo thầy chấm màu nâu.
Tay đưa mềm mại đến đâu,
Sông xanh uốn khúc, rừng sâu chập chùng…
Rồi với giọng trầm hùng, thầy giảng :
“Giống Rồng Tiên chói rạng núi rừng,
Trải bao thăng giáng, phế hưng,
Đem giòng máu thắm, bón từng gốc cây.
Làn không khí giờ đây ta thở,
Đường ta đi, nhà ở nơi này,
Tổ tiên từng chịu đắng cay,
Mới lưu truyền lại đêm ngày cho ta.
Là con cháu muôn nhà gìn giữ,
Đùm bọc nhau, sinh tử cùng nhau.
Tóc thầy hai thứ từ lâu,
Mà tài chưa đủ làm giàu núi sông !
Nay chỉ biết ra công dạy dỗ,
Đàn trẻ thơ mong ở ngày mai.
Bao nhiêu hy vọng lâu dài,
Dồn vào tất cả trí tài các con …”

Giờ đây, mấy chục năm đã trôi qua, tóc trên đầu tôi cũng bắt đầu hai thứ như ông thầy già dạy Địa trong bài học thuộc lòng ngày ấy, nhưng có một điều mà tôi nghĩ mãi vẫn chưa ra. Ông thầy đang dạy Địa, hay ông thầy đang âm thầm truyền thụ lòng yêu nước, lòng tự tôn dân tộc cho đàn trẻ thơ qua mấy nét vẽ bản đồ ?

Lời của thầy thật là nhẹ nhàng, khiêm tốn nhưng cũng thật là tha thiết, chạm vào được chỗ thiêng liêng nhất trong tâm hồn những đứa trẻ ngây thơ vào những ngày đầu tiên cắp sách đến trường, nơi chúng được dạy rằng ngoài ngôi nhà nhỏ bé của mình với ông bà, cha mẹ, anh em ruột thịt, chúng còn có một ngôi nhà nữa, rộng lớn hơn nhiều, nguy nga tráng lệ, thiêng liêng vĩ đại hơn nhiều, một ngôi nhà mà chúng phải thương yêu và có bổn phận phải vun đắp : Tổ quốc Việt Nam.(st)

.

Nguồn SG-GĐ : Đất và Người

.

.

Catégories
Hương Quê

Anh tôi

Nguyen Xuan Quang (BP63)

.

Có nhiều lúc trong đời,

Tôi muốn viết để nói vài lời về anh tôi.

Buồn thay,

Hôm nay,

Mới viết được những dòng này.

.

Khi chiến tranh bùng nổ,

Cha tôi nhờ người mua hộ,

Một căn nhà ở đất tổ Hưng Yên,

Để vợ và bốn con nhỏ,

Về quê lánh nạn trước tiên.

.

Chúng tôi về ở,

Chẳng được bao ngày,

Căn nhà bị giải tỏa để nới rộng sân bay.

Mẹ tôi phải rốc hết số tiền còn lại,

Thuê người phá bỏ.

Bị mắc lừa, năm mẹ con khốn khổ,

Không nhà, không cửa, trắng tay.

.

Rồi vì chiến chinh,

Gia đình phân đôi,

Khi ấy, anh tôi,

Mới bẩy, tám tuổi đời,

Đã thay cha,

Làm người đàn ông cột trụ gia đình.

.

Suốt những năm tháng dài chiến chinh bom rơi, đạn nổ,

Anh tôi,

Lưng địu em nhỏ,

Trước cổ đeo nắm cơm, lọ muối, hũ cà,

Hai tay dắt hai em còn lại,

Lúc đó tôi mới lên ba,

Cố vượt qua những bãi chiến trường lửa đạn,

Đi tìm gặp mẹ, đang bán hàng ở phiên chợ làng xa.

.

Anh làm mẹ,

Những khi mẹ yếu, mẹ đau,

Anh đi bán nước, buôn rau,

Đi mò cua, bắt ốc,

Tảo tần dưới nắng lửa, mưa dầu.

.

Tuổi trẻ của anh tôi tận cùng khổ đau,

Nói không hết bằng lời,

Nhưng anh vẫn yêu đời,

Anh thường đóng vai hề trên sân khấu,

Làm cả làng nghiêng ngả những trận cười.

.

Rồi khi lớn lên, lúc lập gia đình,

Anh lấy vợ, lãng mạn như một chuyện tình.

Anh thương con,

Đứa còn,

Đứa mất lúc đi tìm tự do vượt biển.

Thương con, yêu vợ hơn cả yêu mình.

.

Là con trai trưởng trong nhà,

Anh hiếu thảo, chăm sóc, phụng dưỡng mẹ cha.

Vì tự do, anh lo cho cha, cho con vượt biển,

Để rồi trái tim mình là cả một đại dương bão táp phong ba.

.

Anh ham học nhưng tới trường không được,

Dồn tất cả bao nhiêu mơ ước,

Dồn tất cả bao nhiêu kỳ vọng tương lai,

Anh hy sinh quyết tâm nuôi em ăn học thành tài.

.

Anh yêu người với tất cả lòng nhân,

Anh yêu thương người hơn cả thương thân,

Dù là người tốt hay là người xấu,

Anh luôn luôn giúp đỡ họ khi cần.

.

Anh yêu thú vật như yêu con trẻ,

Con chó anh nuôi, khi đau bụng đẻ,

Đêm đến bên giường sủa đánh thức anh,

Nó muốn anh làm ông mụ hộ sanh.

.

Anh yêu chim trời, cá nước.

Có con chim đồng điệu, đồng thanh,

Thay anh, cất tiếng hót, làm ngơ ngẩn cả trời xanh.

Tiếng hót ngất ngây,

Đã được bầu là Tiếng Hót Hay Nhất Nước (1).

.

Anh yêu cỏ cây, vườn tược,

Trồng một vườn đủ thứ hoa đào,

Ngay bên hàng rào ngoài ngõ,

Để kết hoa cho mùa xuân rực rỡ,

Để người qua đường hạnh phúc

Ngắm hoa nở tân niên.

Để những người không có,

Bẻ trộm về ăn Tết, cúng giỗ tổ tiên, ông bà.

.

Về cuối đời, khi bóng xế tuổi già,

Anh thành một điều dưỡng viên, y tá,

Đút cơm, bồng ẵm, thay quần, thay tã,

Hết lòng nuôi vợ bị bệnh trầm kha.

.

Bao nhiêu bi thảm của đời,

Bao nhiêu gian trá của con người,

Anh đã trải qua mà chẳng thù, chẳng hận.

Anh sống khoan dung chỉ mỉm cười.

.

Rồi đến năm nay, đêm Giáng Sinh,

Giữa muôn mầu hoa đăng rực rỡ, lung linh,

Giữa muôn lời ca, tiếng hát.

Thản nhiên như lúc bình sinh,

Anh ra đi trong giấc ngủ an bình.

.

Hôm nay thân xác anh về lòng đất,

Hương linh anh về cõi Phật,

Sống nơi an lạc vĩnh hằng.

.

Những lời nói này, chân thành,

Từ đáy lòng những người thân ở lại,

Anh hỡi nghe chăng ? Anh… hỡi… anh!

.

NXQ – Anh tôi

Chú Thích

(1) Con chim anh tôi nuôi đoạt Giải Tiếng Hót Hay Nhất Nước trong một Hội Chợ Chim Cá Toàn Quốc ở Đà Nẵng trước đây.

.

.

Catégories
Hương Quê

Bà Cẩm Lợi

Nguyễn Tường Thiết

.

Một lần. Buổi trưa. Lâu rồi. Mẹ tôi ngồi nhặt cau trên sập gụ. Tôi nằm ngửa bên cạnh bà, hai tay cầm giơ trước mặt cuốn truyện Đoạn Tuyệt của Nhất Linh. Đọc đến đoạn cảnh mẹ chồng ác nghiệt với con dâu, tôi nhỏm dậy hỏi mẹ tôi : “Mợ này, mợ có phải chịu cảnh mẹ chồng nàng dâu như cậu tả trong truyện không ?”. Mẹ tôi ngửng lên nhìn tôi nói : “Đấy là cậu viết tiểu thuyết… Bà nội con có khó tính thật nhưng đâu đến nỗi khắc nghiệt thế…”. Rồi mẹ tôi tiếp tục nhặt cau. Lát sau, khi tôi đang đọc tiếp cuốn truyện thì có tiếng bà bên tai : “Khi bà nội con có chuyện gì không bằng lòng thì bà đổi cách gọi. Thường thì bà kêu mợ là bà Tam. Bà Tam ơi ! Ra tôi bảo cái này… Gọi thế là âu yếm đấy. Nhưng khi bà đổi giọng gọi thế này thì mợ biết ngay là sắp sửa có gì to chuyện : Này ! bà Cẩm Lợi ! Nghe tôi nói đây !”.

Bà Cẩm Lợi  - 54.1 koBà Cẩm Lợi Sơn dầu Nguyễn Gia Trí

Tại sao bà nội tôi lại yêu bà Tam và ghét bà Cẩm Lợi nhỉ ? Bởi vì với tôi, không bao giờ mẹ tôi là bà Tam, không bao giờ mẹ tôi là bà Nhất Linh. Với tôi, mẹ tôi luôn luôn là bà Cẩm Lợi, từ ngày tôi lọt lòng mẹ tôi cho đến ngày mẹ tôi qua đời. Cuộc đời của bà gắn liền với cái tên hiệu Cẩm Lợi và cái tên hiệu này gắn liền với những hạt cau khô, mặc dù đôi lúc Cẩm Lợi còn bán cả cá mắm, cá khô, thậm chí còn là tên của một tiệm may y phục phụ nữ…
Từ những ngày rất xa xưa ở Hà Nội ở căn nhà số 9 Hàng Bè trước khi tản cư và số 15 Hàng Bè sau khi tản cư về, tuổi thơ tôi lớn lên bên những bồ cau và mùi diêm sinh. Căn nhà rộng có nhiều phòng. Nguyên một phòng giữa chứa đầy những bồ cau, chất chồng lên nhau đến sát trần. Thuở bé chúng tôi thường chơi trò đi trốn và căn buồng đó, tối tăm và nhiều ngõ ngách giữa những bồ cau, là nơi đi trốn lý tưởng. Tôi thường trèo lên những bồ cau trên cao gần đụng trần, nằm áp mặt trên những bao tải, cảm thấy cái vải bố nháp in hằn trên má và thở cái mùi cau khô toát từ những bao bố. Mẹ tôi kinh hoảng khi khám phá ra cái trò chơi nguy hiểm này của chúng tôi : “Mấy cái bồ cau nó mà đổ xuống thì chúng bay cứ mà chết bẹp !”. Mẹ tôi khi mắng chúng tôi hẳn là bà nghĩ tới cái tai nạn chết đuối đã giết chị Thanh tôi trong cái ao ở trại Cẩm Giàng.
Thuở ấy những người đàn ông hình như trốn tiêu đâu mất cả. Tôi lớn lên như người không cha. Chả ai hỏi tôi ông Tam đâu hay ông Nhất Linh đâu ? Luôn luôn người ta gõ cửa rồi thò cái đầu vào hỏi : “Có bà Cẩm Lợi ở nhà không ?”. Chả bao giờ tôi thấy ông nội ông ngoại, bố tôi hoặc các bác các chú. Xúm lại quanh tôi toàn những đàn bà : bà nội, bà ngoại, bà mẹ, bà vú, và một đống bà cô bà thím…. Không có ông Nhất Linh, ông Hoàng Đạo, ông Thạch Lam. Chỉ có bà Cẩm Lợi, thím Long, thím Sáu… như thể một bên là tiểu thuyết, một bên là đời thường.
Bà Cẩm Lợi ngồi nhặt cau trên sập gụ. Đó là hình ảnh quen thuộc đã ăn sâu trong ký ức tôi từ ngày tấm bé. Đầu vấn khăn, chiếc áo cánh trắng, chiếc quần lĩnh đen, mẹ tôi cúi xuống chà chà cho sạch những hạt cau khô ẩm bị xanh mốc. Trên chiếc sập gụ giang sơn riêng của bà, mẹ tôi vừa nhặt cau, vừa tiếp khách hàng, vừa đôn đốc đám người làm, vừa chơi rỡn nựng nịu con cháu. Đêm đến khi căn nhà đã chìm vào yên vắng bà trải trên sập đống giấy bạc kiếm được trong ngày, đếm từng tờ và xếp buộc thành bó dầy cộm rồi cất trong chiếc két sắt trước khi bà ngủ trên sập gụ ấy. Trong túi áo cánh của bà lúc nào cũng xệ xuống một chùm chìa khoá nặng chịch. Mẹ tôi hay dùng chùm chìa khoá này làm đồ chơi cho trẻ con, bà lắc lắc chùm chìa khóa kêu rộn ràng trước mặt đứa bé cho đến khi nào nó ngoẻn miệng cười mới thôi.
Người đàn bà già nhất sống gần tôi thuở nhỏ là bà ngoại. Bà chết lúc tôi còn bé nên tôi chả nhớ gì nhiều về bà. Hình như người bà gầy đét. Vấn khăn. Răng đen. Một bà già trầu điển hình. Kỷ niệm của tôi thời thơ ấu nếu có chừa một chỗ nhỏ cho bà thì lại là một kỷ niệm không mấy gì đẹp đẽ. Xấu hổ là đằng khác. Hồi đó tôi ngủ chung giường với bà ngoại. Trong một căn buồng trên gác của căn nhà số 15 Hàng Bè. Trước buồng là một hành lang hẹp trông ra phố. Có một đêm ăn phải cái gì mà tôi mót đi cầu quá. Nghĩ tới chuyện phải mò xuống cái cầu tiêu hôi thối ở mãi tít sau nhà dưới giữa đêm tối lại phải lần qua những bồ cau mà tôi lạnh cả người. Bước ra ngoài hành lang người đã bủn rủn. Tôi bèn nghĩ ra một cách giải quyết rất gọn là ngồi phịch xuống ở một góc làm một bãi tướng. Sáng hôm sau ngủ dậy tôi ra hành lang nhìn thì ô hay cái sàn sạch bóng ! Mình có ngủ mơ không chứ ? Buổi trưa ăn cơm tôi nghe hai người làm nói chuyện với nhau : “Rõ khổ ! Cụ bây giờ già lẫn quá rồi… Cứ bạ đâu là ỉa đó !”. Khám phá ra điều bí mật này, sau đó tôi còn làm thêm vài bãi nữa và đều bình an vô sự !
Bà nội tôi thì trái lại có tướng võ, người cao to. Dưới mắt tôi hồi nhỏ bà nội trông như đàn ông. Gương mặt bà có đường nét không thể lẫn với ai. Đôi mày rậm, mắt sâu, sống mũi cao. Cái tướng đó mà chui vào chiếc áo tu hành tôi thấy có vẻ lệch lạc. Từ một thuở xa nhất, hồi ở Cẩm Giàng lúc tôi mới lên năm, hình ảnh và tiếng tụng kinh của bà đã thấm sâu vào tuổi thơ tôi. Bà ngồi trên sập, khoác áo nâu sồng, một tay chắp trước ngực, một tay gõ mõ. Nam mô a di đà Phật… Nam mô á di đà Phật… Nam mô ạ di đà Phật… Tiếng tụng kinh đều đều tôi nghe cứ nhỏ dần đi như tiếng kêu rỉ rả của những con ve sầu. Tôi lại có cảm tưởng như bà vừa ngủ vừa tụng, lâu lâu chợt thức, tiếng tụng bỗng to lên như tiếng ve ran. Và như một giọng ru buồn nản Nam mô a di đà Phật đã trôi vào giấc ngủ ấu thơ của tôi.
Sau này biết rõ hơn về bà nội tôi thấy bà là người phi thường. Chồng chết khi bà mới 37 tuổi, một mình xây dựng và cai quản cả một dinh cơ Cẩm Giàng, lại nuôi bẩy con trở thành những người lỗi lạc. Một người đàn bà như thế “dễ có mấy tay” phải là người cứng rắn và độc đoán. Mẹ tôi vào làm dâu nhà bà, lại không phải đến từ một gia đình giầu có và danh vọng, chắc chắn phải chịu cảnh “mẹ chồng nàng dâu” nếu không quá quắt như bà phán Lợi trong Đoạn Tuyệt thì cũng khó sống cho yên.
Thế mà mỗi lần có gì không vừa ý bà nội Lê thị Sâm chỉ lôi tên bà Cẩm Lợi ra nhiếc. Mẹ tôi quả là người may mắn ! Gần đây đọc cuốn hồi ký của cô Năm tôi (Hồi ký về gia đình Nguyễn Tường – Nguyễn Thị Thế) đoạn viết bà nội đối xử nghiêm khắc và độc đoán với người con gái duy nhất của bà, tôi hiểu là vì sao mẹ tôi may mắn hơn cô Năm. Bà nội tôi và mẹ tôi (và có lẽ phần lớn những bà mẹ của thế hệ ấy) có một điểm giống nhau. Đó là đối xử thiên lệch với con cái : con trai bao giờ cũng được cưng chiều và nể trọng hơn. Huống hồ trong số sáu người con trai, bà nội tôi hình như lại yêu và nể bố tôi nhất. Tôi nghĩ rằng khi bà nội gọi mẹ tôi bằng cái tên thân thương “bà Tam”, bà đã gửi cái trìu mến về người con trai thứ ba của bà. Cộng thêm vào đó mẹ tôi lại là một người hết sức khéo léo trong cách ăn ở. Chả thế mà trong gia đình nội ngoại chúng tôi nói đùa là mẹ tôi đã tước cái chức bộ trưởng ngoại giao của bố tôi.
Dưới mắt tôi mẹ tôi không bao giờ là người đàn bà đẹp. Đôi lúc tôi còn thấy xấu là đằng khác. Có thể là vì khi tôi được sinh ra đời mẹ tôi đã đẻ trên mười người con. “Đẻ như thế thì còn gì là người”. Tôi nghĩ. Hơn thế nữa qua hình ảnh bà Cẩm Lợi mẹ tôi lúc nào trông cũng lam lũ và luộm thuộm. Một hình ảnh và một nhan sắc như thế làm sao mê hoặc được bố tôi nhỉ ? Cho đến mãi gần đây chị Thoa tôi từ bên Pháp gửi tôi một tấm ảnh rất cũ, chụp tám năm trước khi tôi lọt lòng mẹ, lần đầu tiên tôi mới thấy dung nhan của bà thời trẻ. Một người đàn bà đẹp. Bức ảnh chụp năm 1932, mẹ tôi 25 tuổi. Năm ấy mẹ tôi dẫn chị Thư tôi, lúc ấy 5 tuổi, đi dự thi trẻ em đẹp và chị tôi được chấm giải nhất. Tôi nhìn đôi mắt của bà trong ảnh và chợt nhớ tới đoạn viết của nữ sĩ Anh Thơ. Đôi mắt bà chớp chớp. Tôi chợt thấy đôi mắt bà đẹp quá ! Một đôi mắt to mênh mông, có hàng mi dài óng ả. Rồi tôi chợt thấy thương mẹ tôi quá ! Một lòng thương cũng mênh mông như đôi mắt to của bà. Nông nỗi nào mà người đàn bà trong ảnh bỗng trở thành bà Cẩm Lợi tiều tụy như thế trong tâm trí tôi ?
Những năm tháng tôi sống ở Hà Nội phố Hàng Bè là thời gian tôi sống lêu lổng và làm buồn lòng mẹ tôi không ít. Bố tôi biến đâu mất ở bên Tàu, mẹ tôi suốt ngày đánh vật với các bồ cau, lũ chúng tôi lớn lên hoang như cây cỏ. Một bữa tôi thấy trên tủ chè có một chai nước màu đỏ đỏ, dán nhãn hiệu tiếng tây, lại có vẽ hình con mèo, tôi nhấp thử thấy nó ngọt ngọt ngon ngon, bèn rủ thằng Thái em tôi mỗi đứa nốc mấy ngụm. Mẹ tôi đi chợ về trông thấy hai đứa con của bà nằm lăn lóc, mặt đỏ tiá, nói lảm nhảm thì biết ngay. Bà quát người làm lấy nước chanh cho chúng tôi uống và mắng họ là từ rầy rượu phải cất trong tủ chè khoá trái lại.
Thuở mẫu giáo tôi ở nội trú cùng với chị Thoa tôi trong trường bà sơ phố nhà Chung gần nhà thờ lớn Hà Nội. Trường có tường cao quét vôi vàng bao quanh nom như một nhà tù. Tôi sợ nhất là nhìn các bà sơ mặc áo đen cúi mặt đi lại trên hành lang. Họ lướt yên lặng như những bóng ma. Giờ ăn cũng không được nói chuyện. Tôi phải đứng nghiêm cùng với đám học trò mặc đồng phục đọc kinh. Lạy cha chúng tôi ở trên lời… Chúng tôi nguyện danh cha cả sáng… Tuổi thơ của tôi hết nghe tiếng niệm phật lại nghe tiếng cầu kinh. Lớn lên tôi chả biết tôn giáo nào để theo.
Lên tiểu học chị Thoa sang học trường Thanh Quan còn tôi học trường Hàng Vôi. Nhưng tôi thường trốn học đi xem xi nê tặc-dzăng ở rạp Lửa Hồng hoặc giao du với đám trẻ mất dậy ở ngõ Phát Lộc. Cầm đầu bọn quỷ sứ thời ấy là tay Đỗ Bá Viễn. Hắn hơn tôi mấy tuổi, lõi đời. Hắn bầy cách cho tôi lấy cắp tiền của mẹ tôi. Cách ấy thật là thần sầu. Chả là tôi cứ bị ám ảnh bởi cái túi áo cánh lúc nào cũng xệ xuống của mẹ tôi, trong đó là chùm chìa khóa. Trong chùm ấy cái chìa to nhất, không phải là chìa bẹt mà là chìa ống có khía ở đầu, dùng để mở cái két to tướng và nặng nề. Thằng Viễn bảo tôi phải đánh cắp cái chìa khoá ấy. Nhưng mẹ tôi lúc nào cũng ôm chìa khoá trong người ngay cả lúc bà ngủ. Thằng Viễn chờ mãi thấy tôi không lấy được chìa khóa nó bèn nghĩ cách khác. Nó cầu cứu thằng Đồng con ông thợ khóa ở phố Hàng Mắm. Thằng Đồng đưa tôi một miếng gì dẻo dẻo trông như ruột bánh mì, bảo tôi đút vào lỗ khoá, chờ cho khô thì rút ra. Rồi nó đem cái khuôn bánh mì ấy về cho bố nó đúc thành chìa. Mở được két tôi hoa cả mắt lên vì trong két nhiều tiền quá. Tôi vớ đại một bó. Mấy hôm sau tôi kinh hoảng thấy mẹ tôi la lối tra khảo người làm đã lấy cắp tiền của bà. Mẹ tôi cho là mình mất tiền trong lúc đếm bạc chứ không nghĩ là ai có thể mở được cái két chắc chắn kia. Tôi tiết lộ với Viễn. Nó bầy mưu khiến mẹ tôi không bao giờ biết là mình bị mất tiền. Mỗi lần mở két, thay vì lấy nguyên bó, tôi chỉ nhón mỗi bó một hai tờ. Những bó bạc này mẹ tôi giao cho khách hàng, thường thì họ không bao giờ đếm lại trước mặt mẹ tôi, và sau này nếu có đếm thấy hụt cũng không sao, chẳng kiện cáo gì. Mẹ tôi bán buôn, làm ăn lớn, khách có biết cũng bỏ qua, xá gì mấy tờ bạc mất lẻ tẻ.
Có tiền tôi ăn tiêu vung vít. Người bán hàng thấy tôi trả tiền bằng tờ giấy đỉnh thì trố mắt nhìn tôi kinh ngạc. Tiêu cho mình thì ít nhưng bao mấy thằng du côn thì nhiều. Tôi khoái nhất là bỏ tiền thuê bao xích lô nguyên ngày chở tôi và Viễn đi chơi cùng khắp Hà Nội trên những con đường rợp mát bóng cây trong tiếng ru râm ran của những con ve sầu. Hai đứa thủ hai khẩu súng cao su, bốc nhãn ăn thả dàn rồi dùng hạt nhãn làm đạn bắn lung tung lên ngọn cây. Nhưng cái thời “huy hoàng” của tôi không kéo được lâu. Một bữa mẹ tôi bắt gập tại trận tôi đứng trước tủ két mở và tước cái chìa khoá của tôi. Bà sai anh tôi (hình như là anh Triệu) đè sấp tôi ra trên chiếc sập gụ của bà dùng đuôi chổi phất trần đét mấy cái vào mông. Tôi giả vờ khóc rống lên chứ tôi thấy anh tôi đánh cũng nhẹ tay lắm (chắc hẳn anh nghĩ trong bụng mình cũng chả gương mẫu gì hơn thằng em).
Dịp may đến với mẹ tôi. Năm 1951, lúc ấy bố tôi ở bên Tàu về Hà Nội đã được mấy tháng, ông quyết định vào Sài Gòn lập nghiệp. Đầu tiên bố tôi chỉ cho chị cả tôi là chị Thư đi cùng. Nhưng mẹ tôi cứ bắt bố tôi phải mang theo tôi. Đến tận bây giờ, khi tôi viết những dòng này, trong gia đình không một ai biết là mẹ tôi đã cố ý “đuổi” tôi vào Nam. Tôi rất cám ơn mẹ tôi về quyết định rất sáng suốt này của bà. Bởi vì vào Nam tôi trở thành một con người hoàn toàn khác.
Năm đó tôi mười một tuổi. Lần đầu tiên trong đời tôi đi phi cơ. Lại là phi cơ của hãng Air France. Sang trọng quá ! Máy bay đến phi trường Tân Sơn Nhứt, tôi lạ lẫm đọc cái chữ “Nhứt” và hỏi chị tôi họ viết như vậy có phải là sai không. Tôi trố mắt nhìn những căn nhà nhiều từng, những tên phố tây Pellerin, Charner, Catinat, Pasteur, Richaud… và cứ nghĩ là mình đi Tây chứ không phải vào Nam. Cái gì tôi cũng thấy nó văn minh và lạ mắt. Sau này tôi nghe kể nhiều lần về những ông cán ngố ngoài Bắc sau năm 1975 vào Nam lần đầu nhìn thấy thành phố Sài Gòn, tôi nghĩ là họ chắc cũng chỉ ngố như tôi là cùng. Ba bố con tôi ở chung với gia đình bác Thụy trong một căn nhà lớn do chính phủ cấp cho nhân viên sở Bưu Điện (mà bác tôi là tổng giám đốc) số 12P đường Chasseloup Laubat (sau đổi là Hồng Thập Tự và bây giờ là Nguyễn Thị Minh Khai). Đối diện nhà bác Thụy là hai cái cao ốc 5 từng. Tôi thích trốn sang đó chỉ để chui vào cái lồng thang máy bấm nút cho nó thăng thiên lên lầu thượng rồi lại bấm nút cho nó tụt xuống… cứ thế… cho đến khi những ông tây bà đầm trú ngụ trong cao ốc biết được la lối om sòm đuổi tôi đi. Nhà bác Thụy ngăn nắp và sạch sẽ quá, các anh chị họ tôi nói năng lịch sự, cư xử quý phái không chửi tục om xòm như đám “bạn” tôi ở ngõ Phát Lộc, họ học trường Tây, khoe tôi những cuốn sách màu đẹp đẽ Tin Tin, Spiroux, Quatre Frères Dalton… Xa rồi những bồ cau khô, mùi cá mắm, hơi diêm sinh và căn nhà, con phố bẩn thỉu nghèo nàn của thành phố Hà Nội. Xa rồi mẹ tôi, bà Cẩm Lợi. Xa rồi các anh tôi vẫn còn lối sống “lạc hậu” ở miền đất Bắc xa vợi kia…
Lần đầu tiên trong đời tôi thực sự sống gần bố. Tôi luôn luôn nhìn ông như ngắm một người lạ. Bởi vì cho dẫu tôi có ở sát bên ông, sống cạnh ông nhiều năm sau này trong đời thì giữa ông và tôi, và giữa ông với gia đình, hình như luôn luôn có một khoảng cách. Tôi tự hỏi vì sao không bao giờ tôi có được cái cảm giác thật gần gũi với bố như tôi đã luôn luôn có với mẹ. Nếu có thấy chút nào gần ông thì cái gần ấy chỉ trên phương diện tâm hồn. Bố tôi có gương mặt tây phương, mang nhiều nét đặc thù di truyền từ bà nội tôi. Ông có một phong thái hài hoà rất thanh nhã trong cách cư xử nó cho người ta biết, chỉ qua dáng ngoài, cái chiều sâu của con người ông. Bố tôi rất ít nói. Lúc nào cũng thấy ông lắng nghe với một cái nhìn sâu và đằm thắm. Ông lại rất chuộng sự yên tĩnh, ngăn nắp và sạch sẽ. Những gì tôi biết về ông khiến tôi hiểu vì sao ông sống được và thích hợp trong một gia đình như bác Thụy và không thể nào sống bên những bồ cau với mẹ tôi được.
Năm 1954, đất nước chia đôi, mẹ và các anh tôi lục tục vào Nam. Mẹ tôi mua căn nhà số 39 chợ An Đông để ở và lấy chỗ buôn bán. Vào Nam mẹ tôi chuyên bán sỉ cau khô chứ không bán cau khô lẫn cau tươi như ở ngoài Bắc. Nguồn cung cấp cau chính của hiệu Cẩm Lợi là tỉnh Quảng Nam vì cau là thổ sản của tỉnh này. Mẹ tôi tiếp tục giao dịch với các hiệu Phước Xuân, Phước Hiên ở Hội An, nơi mà bà đã mua bán từ những năm đầu của thập niên 1940. Vào Nam mẹ tôi lại thêm một thị trường cung cấp mới là tỉnh Bến Tre. Bà ít có dịp ra Trung như dạo còn ở Hà Nội trước khi di cư, nhưng bà lại thường xuyên liên lạc với các bạn hàng ở Bến Tre, đặc biệt là bà Thái Nguyên, có khi mẹ tôi xuống ở lại đó nhiều ngày. Nhà của các bạn hàng thường ở miệt vườn, cách xa thành phố, phải đi ghe xuồng mới tới. Sau này tình hình ở tỉnh Bến Tre mất an ninh, chúng tôi cảnh giác mẹ tôi là các bạn hàng cau ở tỉnh đó nằm sâu trong mật khu của Việt Cộng nhưng mẹ tôi không bao giờ tỏ vẻ sợ hãi. Mẹ tôi không bán cau lẻ. Mua cau khô về, mẹ tôi xấy khô, đóng bao, và bán lại cho các đại lý, thường là những người Hoa ở trong Chợ Lớn. Một trong những đại lý mà mẹ tôi đã giao hảo tốt đẹp là ông Cơ Tấn. Chúng tôi xem ông Cơ Tấn như người nhà. Sự giao dịch với ông Cơ Tấn gắn liền với đời buôn cau của mẹ tôi, kéo dài từ thập niên 40 cho đến có lẽ sau cả biến cố tháng Tư năm 75.
Cái sập gụ, tủ chè, két bạc và cái cân được chở từ ngoài Bắc vào. Tôi trở về với những bồ cau và làm quen lại với mùi diêm sinh đã làm tôi ho sặc sụa trong những năm tháng cũ ở Hà Nội. Cau mốc được tẩy trắng bằng khói diêm sinh. Trong một vòng nan cuốn tròn, những cái sàng cau lớn xếp chồng nhau ủ trong vải bố, dưới là cái lò nhỏ đốt diêm sinh, khói xanh từ những kẽ vải bốc ra tỏa khí độc khắp nhà. Tôi thoát được mấy năm xa lánh cái không khí bụi bặm ồn ào của chợ An Đông khi tôi theo chân bố tôi lần thứ hai lên sống trên Đà Lạt. Mấy năm sống trên cao nguyên với bố tôi là thời gian thần tiên nhất trong đời tôi. Năm 1958 khi bố tôi quyết định “xuống núi” về Sài Gòn làm báo, tôi cũng theo chân ông về sống với mẹ tôi ở chợ An Đông cho đến tháng tư năm 1975.
Nghĩ lại tôi thấy tội nghiệp mẹ tôi vô cùng. Những người con của bà, trừ anh cả tôi đã sang du học bên Pháp từ hồi còn ở Hà Nội, tuy ở gần bà nhưng không ai giúp bà đúng mức trong việc buôn bán. Nhà có thuê người làm cau nhưng họ chỉ cáng đáng những việc nặng như khuân vác, xấy cau, còn việc giấy tờ, sổ sách, thư từ, mẹ tôi rất cần người giúp. Mẹ tôi lại chiều con trai nên ngại nhờ con. Mà đôi lúc có nhờ thì chúng tôi lại làm với sự miễn cưỡng, thậm chí còn gắt gỏng. Đối với con gái, nhất là bà chị cả tôi, thì mẹ con không hợp tính. Cứ nói chuyện được dăm ba câu thì hai người lại cãi vã. Chị kế tôi hợp với mẹ tôi hơn thì sau này đi Pháp và ở luôn bên đó. May mắn cho mẹ tôi là trong những năm của thập niên 70 bà có hai người con dâu ở gần là chị Triệu và nhà tôi. Mẹ tôi tín nhiệm và cưng chiều hai nguời con dâu có lẽ còn hơn con đẻ. Chị Triệu và nhà tôi, ngoài việc giúp mẹ tôi trông coi sổ sách và các công việc buôn bán khác, lại thường ngồi rủ rỉ tâm tình với bà. Đây là điều hết sức quí đối với mẹ tôi vì bà rất ít có được những phút tâm tình thân mật như thế đối với những người con. Tháng sáu năm 2005 vừa qua vợ chồng tôi qua bên Montreal dự đám cưới đứa con của anh Triệu tôi, một đêm thức giấc nửa khuya tôi nghe hai người con dâu của mẹ tôi ngồi trong bóng tối rù rì nói chuyện, hai người nhắc đến những kỷ niệm xa xưa với mẹ tôi hồi còn ở chợ An Đông trên ba mươi năm về trước. Tôi nghe được câu nói : “Mợ đối với con dâu thật không có một điểm gì để chê trách”.
Trong những lần giúp mẹ tôi tính toán sổ sách tôi ngạc nhiên về trí thông minh của bà. Mẹ tôi thuộc thế hệ xưa không được đi học nhiều, trình độ có lẽ chỉ ngang mức tiểu học. Bà viết những câu văn không thành cú, chữ viết lại nghệch ngoạc như gà bới. Để tính tiền cau – những con số thành thường lớn đến mấy trăm ngàn – chúng tôi phải lấy giấy bút cặm cụi làm những con tính nhân chia. Thế mà chỉ liếc qua giá thành là bà đã gật gù đồng ý hoặc bà nói : “Con tính sai rồi, tính lại đi !” Trăm lần như một mẹ tôi nói đúng ! Tôi tự hỏi với cái trí thông minh ấy cộng với sự lanh lẹ của bà nếu mẹ tôi ra sinh ra trong một hoàn cảnh khác hoặc một thế hệ khác được ăn học thì tôi không biết là bà sẽ tiến xa đến đâu.
Mẹ tôi viết thư cho những bạn hàng cau bao giờ cũng nhập đề bằng câu : “Tôi có lời hỏi thăm bà được mạnh khỏe tôi mừng…”. Biết như thế mỗi lần viết thư cho bà chúng tôi viết sẵn trước, khi bà vừa đọc xong câu đó thì chúng tôi nói ngay : “Con viết xong rồi, mợ đọc tiếp đi !”. Người mà mẹ tôi viết thư giao dịch nhiều nhất ở Hội An là bà Phước Xuân mà chúng tôi còn gọi là cô Năm Dung. Trong ba mươi năm giao dịch buôn cau với hiệu Phước Xuân chúng tôi đã viết đến cả mấy trăm lần câu Kính gửi bà Phước Xuân… Tôi có lời hỏi thăm bà được mạnh khỏe tôi mừng… Chính tôi đã dán không biết bao nhiêu con tem để gửi về địa chỉ hiệu Phước Xuân số 37 đường Nguyễn Thái Học ở Hội An. Những lá thư đưa tôi về một thành phố mà từ hồi tấm bé tôi đã nghe nói tới nhiều lần. Hội An. Làng Cẩm Phô. Họ Nguyễn Tường. Chốn ấy mơ hồ trong tâm tưởng tôi như một miền quê hương hư ảo.
Năm 1964, một năm sau khi bố tôi qua đời, lần đầu tiên tôi có dịp đến tỉnh Quảng Nam thăm thành phố Hội An. Cảm tưởng đầu tiên của tôi ra sao nhỉ ? Khi đến một nơi đã được nhắc nhở hoài trong quá khứ ? Thay vì bắt gặp một quê hương trong tâm tưởng, tôi bàng hoàng nhìn thấy một Hà Nội xưa cũ của tôi. Một Hà Nội lồng vào Hội An trong từng căn nhà, từng con phố. Từ căn nhà từ đường của dòng họ ở gần chùa Cầu tôi rảo bộ trên đường Nguyễn Thái Học để tìm hiệu Phước Xuân bỗng thấy mình lạc vào phố Mã Mây vào ngõ Phát Lộc vào những con phố cổ mà tôi đã lìa xa mười ba năm trước. Trên đường tôi đi qua chùa Cầu thằng bạn cũ Đỗ Bá Viễn vẫn nhỏ bé như ngày nào giơ tay chào tôi, tôi nhìn lại căn nhà xưa của mình ở phố Hàng Bè và tất cả Hà Nội từ từ hiện ra. Rưng rưng. Bé nhỏ. Thân thương. Tôi ra đi khi tôi còn là cậu học trò tiểu học, tôi trở về “Hà Nội” đã là một giáo sư. Mười ba năm đủ xa để Hà Nội trở thành kỷ niệm. Đất nước chia đôi càng khiến ngày về trở thành vọng tưởng, khiến đường về trở thành thiết tha.
Mấy ngày ở Hội An tôi ở nhà cô Năm Dung. Người con trai của cô tên là Tinh dẫn tôi đi chơi thành phố. Chúng tôi đạp xe đến cửa Đại tắm và ăn đồ biển trong những quán lá dưới bóng rợp lưa thưa của hàng cây thùy dương. Chiều đến chúng tôi ngồi trên sân thượng sau nhà nhìn con đường Bạch Đằng và dòng sông Thu Bồn lấp lánh ánh nắng. Bên kia sông nơi mà suốt đời tôi chưa từng đặt chân tới có làng Cẩm Phô. Nơi đó mới là chính quê của họ Nguyễn Tường. Nơi đó mới thực sự là miền quê hương hư ảo của tôi.

*

Bốn mươi năm đã qua kể ngày tôi đặt chân lần đầu xuống đất Quảng Nam. Bốn mươi năm sau tôi trở về Hội An với một tâm cảnh khác. Đã bao nhiêu nước chẩy qua cầu. Từ dạo đó. Tôi trở về lần này trên chuyến tàu hỏa mang theo ba bình tro của nhữngngười tôi yêu thương nhất. Đó là bố mẹ tôi và người chị cả. Nếu đường về quê cũ của bố tôi và người chị cả từ Sài Gòn đi Hội An tương đối gần thì con đường của mẹ tôi đi thật dài, dài đến nửa vòng trái đất. Tháng Tư năm 1981 anh Việt tôi từ bên Pháp trở về Việt Nam dìu mẹ tôi lên máy bay sang Pháp chữa bệnh. Mẹ tôi mất ở Paris, cùng năm. Hai mươi năm sau, năm 2001, cũng vào tháng Tư anh Việt lại ngồi trên máy bay trở về Sài Gòn nhưng lần này tay anh mang bình tro người mẹ. Bình tro của ba người được chôn cất ngày 28 tháng Tư năm 2001 tại nghĩa trang riêng của họ Nguyễn Tường ở Hội An.
Cả cuộc đời buôn cau của mẹ tôi, bà Cẩm Lợi, gắn liền với chiếc sập gụ. Bà sống trên nó. Bà ngủ trên nó. Đó là một cái sập quý làm bằng gỗ lim màu nâu bóng, rắn chắc và trạm trổ. Mặt sập cao hơn đầu gối của tôi bây giờ. Thuở ấu thơ ở Hà Nội bàn tay nhỏ bé của tôi thường mân mê bốn cái chân sập bóng loáng nổi phồng lên phía trên và eo thắt lại ở phía dưới. Ngón tay nhỏ bé của tôi thường sờ dọc theo con đường rãnh có trạm những hạt gỗ nổi trông như chuỗi tràng hạt gỗ màu nâu bóng của mẹ tôi. Cái sập gụ ấy từ Hà Nội theo mẹ tôi vào Nam. Rồi cái sập ấy lại từ Sài Gòn theo mẹ tôi sang Pháp. Nay mẹ tôi trở về Hội An. Cái sập để lại ở Paris được trưng như một cổ vật trong phòng khách của một người chị họ.

Mẹ tôi không cần chiếc sập gụ ấy nữa. Bà xa rời nó như xa rời cuộc đời nhọc nhằn. Bà Cẩm Lợi đã trả xong cái nghiệp mà chúng tôi kính cẩn ghi ơn. Bây giờ nằm vĩnh viễn bên chồng mẹ tôi mãi mãi là bà Tam của chúng tôi.

Mùa Hạ, năm 2005.
Nguyễn Tường Thiết

.

* Chân thành cảm tạ nhà văn Nguyễn Tường Thiết đã cho phép Amicale BPDN đăng bài này nhân Ngày của Mẹ – Fête des Mères 3-6-2012.

.