Catégories
Prose

Con Chó, văn học và dân tộc


Đặng Tiến (BP60)

Năm nảo, năm nao, năm nào cũng vậy, mỗi lần Tết, viết báo Xuân, thì một ý tưởng lại về. Năm ngoái đã viết câu này, năm nay viết lại : quê tôi có câu hát ru thậm hay :

Con mèo, con chó có lông,
Cây tre có mắt, nồi đồng có quai

Câu hát giàu chất thơ, nằm ngoài cái hay từ chương, học được ở nhà trường hoặc qua sách vở. Lời thơ đơn giản trong từ vựng cũng như bút pháp, và không mang một lượng thông tin nào đáng kể cho người nghe, vì chỉ nói lên những điều hiển nhiên, tầm thường, người người đều biết. Lời nói xem như không có nội dung, mà vẫn đứng vững được đời này sang đời khác ; như vậy, câu nói tự lấy mình làm nội dung, ngôn ngữ tự lấy mình làm cứu cánh. Đấy là một câu thơ đích thực, theo quan niệm hiện đại. Mà lại là một câu thơ hay, phần nào nhờ giàu nhạc tính, phụ âm k luyến láy ở những vị trí trọng yếu, làm nổi bật động từ có, vừa là sở hữu (avoir) vừa là hiện hữu (être). Bộ lông là hiện thân, là thành phần bản thể tự nhiên của con mèo, con chó. Câu thơ gợi lên một không gian im lìm, thân thuộc : mảnh vườn, góc sân, xó bếp, trong tâm trạng thư thái, hạnh phúc, tin cậy vào cuộc sống. Phong cảnh ở đây ngưng bóng thời gian, ngoại quan là một tâm cảnh, một tâm cảm dù không có chữ nào diễn đạt tâm tình.

Giấy cắt – Vink 2006

Dù vậy, không phải ai ai cũng thích ; Xuân Diệu đã chê gắt gao : « đó là một kiểu mẫu về câu thơ vô vị (…) trần trụi như mèo chó đã bị vặt lông ( !) và nghe đến nó thì ống tre cũng không hứng thú gì mà có mắt nữa » ( !) (1).

Tệ đến thế là hết nấc !

Về chó, ca dao ta còn có câu cực hay :

Bực mình con chó nhỏ sủa dai
Sủa nguyệt lâu đài, sủa bóng trăng lu

Nhà thơ Tô Thùy Yên, khi trích dẫn câu này, đã bình luận : « nhóm từ ‘nguyệt lâu đài’ không rõ nghĩa, nhưng dàn dựng cho lời thơ một cảnh sắc hoang đường lạ lẫm. Thi tính, đôi khi nếu chẳng phải là thường khi, vượt ra ngoài những diễn luận thông phàm. Một trong những kỳ tích của thơ, có lẽ cũng của tình yêu nữa, là ôm cõng được cái thực tách khỏi chỗ thường nhật. Cái thực trong thơ là cái thực ròng » (2)

Tô Thùy Yên sành văn học dân gian và do đó dè dặt hơn Xuân Diệu. Câu ca dao trách con chó sủa dai, phá giấc ngủ, lúc nào cũng sủa được : trăng lu cũng sủa, trăng sáng lại sủa. ‘Nguyệt lâu đài’ là cảnh trời mây huy hoàng tráng lệ khi trăng bỗng nhiên rực rỡ, đối lập với ‘bóng trăng lu’.

Thơ Xuân Diệu :

Đêm nay rằm yến tiệc sáng trên trời…
…Trăng đĩa ngọc giữa mâm trời huyền bí

Thơ Hàn Mạc Tử :

Trăng tan tành rơi xuống một cù lao
Hóa đài điện đã rất nên tráng lệ

(Phan Thiết)

Điều lạ làm lạc hướng Tô Thùy Yên, là một người thơ dân gian, vô danh, không chuyên nghiệp, đã sáng tạo ra được hình ảnh ‘sủa nguyệt lâu đài’, tân kỳ, hư ảo và diễm ảo.

*

Trong văn học thành văn, con chó cũng đã góp mặt rất sớm qua bài thơ Vô Đề, mở đầu Quốc Âm Thi Tập của Nguyễn Trãi, tác phẩm bình minh trong nền thi ca Việt Nam :

Ao bởi hẹp hòi khôn thả cá
Nhà quen xú xứa ngại nuôi vằn

Ngày xưa nước ta con chó không có tên, được ô theo màu lông, con vằn, con vện, con mực, con khoang… Vằn, vện cùng nguồn gốc ngôn từ, là chữ văn trong Văn Lang, văn hóa, văn minh ; có khi phát âm ra vân trong quả cau nho nhỏ, cái vỏ vân vân… Câu thơ Nguyễn Trãi : xú xứa nghĩa là xuề xòa, xuềnh xoàng ; ngại nuôi vằn vì bạn mình ưa lục lọi, nên tục ngữ có lời khuyên : chó treo, mèo đậy ; nhà thơ mải lo tiếp mây khách khứa, nguyệt anh em ắt không mấy để tâm đến việc đậy điệm, treo leo.

Vink – En passant le pont p.17

Tác phẩm Nguyễn Trãi còn lưu truyền đến nay là nhờ vua Lê Thánh Tông giải oan và ra lệnh sưu tầm ; Thánh Tông sống sót là do Nguyễn Trãi bao che, và lên ngôi nhờ công Nguyễn Xí phù lập. Nguyễn Xí lập sự nghiệp bắt đầu từ việc… nuôi chó : ông có tài điều khiển đàn chó săn hàng trăm con của Lê Lợi, trước khi cầm quân thời khởi nghĩa Lam Sơn và trở thành danh tướng.

Bóng dáng, tiếng sủa của con chó gắn bó với phong cảnh làng mạc Việt Nam, được Nguyễn Khuyến ghi lại bằng câu thơ tài tình :

Trâu già gốc bụi phì hơi nắng
Chó nhỏ bên ao cắn tiếng người

Lời lẽ nôm na, toàn những tiếng đơn âm, gợi lên phong cảnh, khí hậu buổi trưa hè Việt Nam trong những chi tiết độc đáo và chọn lọc, hơi thở mạnh của con trâu trong khí nóng bức và im ắng , khiến một âm hao nào đó của con người cũng đủ khuấy động không gian, làm giật mình con « chó nhỏ » thơ ngây. Câu thơ nôm na như vậy dễ làm người đọc quên nguyên tác bằng chữ Hán :

Ngọa thụ bì ngưu hư thử khí
Cách trì tiểu khuyển phệ nhân thanh

Bài này Nguyễn Khuyến làm để tặng người anh họ là Đặng Tự Ý và tự dịch ra quốc âm. Có lẽ câu thơ dịch hay hơn nguyên tác, vì hợp tình hợp cảnh hơn.

Thời thế đổi thay, con chó cũng đổi thay. Có lần Tổng đốc Nam Định là Vũ văn Báo, theo lệnh chính quyền Pháp, vời Nguyễn Khuyến đến nhà, có ý mời ra làm quan. Nguyễn Khuyến cùng đi với con cả là Nguyễn Hoan, vào đến cổng dinh tổng đốc thì gặp viên công sứ Pháp đi ra, lại bị con chó tây chồm lên cắn ; Nguyễn Khuyến hoảng hốt đẩy con ra chắn chó. Sau đó, trong câu chuyện với chủ nhân, ông đã làm thơ tức cảnh :

Hốt đáo nhĩ môn phùng nhĩ cẩu
Cấp tương ngô tử thế ngô thân

Tạm dịch :

Chợt đến cửa ngươi, gặp chó ngươi
Kíp đưa con mỗ thay thân mỗ

Không rõ đây là chuyện thật, hay là giai thoại , hư cấu theo chuyện Nguyễn Khuyến từ quan nhưng đẩy con trai, phó bảng Nguyễn Hoan, ra tham chính thay mình. Dù sao hình ảnh con chó tây xuất hiện ở đây, cũng đánh dấu một giai đoạn xã hội khác, đời mới, người mới, chó mới, như trong bài văn tế Ri-vi-e (Henri Riviere), chết tại trận Ô Cầu Giấy, năm 1883 :

Nhớ ông xưa
Mắt ông xanh lè, mũi ông thò lõ
Đít ông cưỡi lừa, mồm ông huýt chó

Loại chó tây này, càng về sau, càng rõ nét hơn như trong bài thơ Thăm bạn, 1937 của Võ Liêm Sơn (1888-1949) :

Lâu ngày đi thăm bạn
Đến ngõ chó tuôn ra
Những con to và béo
Tiếng sủa như đồng loa
Thấy chó biết nhà chủ
Làm ăn rày khá mà.
Thôi thế, cũng là đủ
Bất tất phải vào nhà.

Có những con chó làm cho con người gần nhau. Hay xa nhau.

*

Trong quá trình phát triển của đất nước, Nam Bộ gia nhập vào văn học muộn màng ; có khi nhờ vậy mà ít vướng mắc vào những kiêng dè đề tài, và đề cập nhiều đến chó.

Huỳnh Mẫn Đạt (1807-1883) quê Gia Định, có bài thơ đề cao công trạng chó, tự ví mình với con chó già, than thân chó, trách phận mình, lời thơ ưu ái :

Con chó già
Tuy rằng muông cẩu có ân ba
Răng rụng lâu năm nó phải già
Bởi đuổi hươu Tần nên mỏi gối
Vì lo khỉ Sở mới dùng da
Không ai trấn Bắc ngăn bầy cáo
Ít kẻ ngừa Tây giữ đứa tà
Mạnh mẽ khi xưa còn hớn hở
Bây giờ yếu đuối hết xông pha

(Hươu Tần, khỉ Sở : điển tích về việc tranh bá đồ vương thời Tần Hán, và nhiệm vụ săn bắt của loài chó)

Nguyễn văn Lạc (1842-1915) thường được gọi là Học Lạc, quê Mỹ Tho, có bài thơ nhiều người biết :

Chó chết trôi
Sống thì bắt thỏ, thỏ kêu rêu
Thác thả dòng sông xác nổi phều
Vằn vện xác còn phơi lửng dửng
Thúi tha danh hãy nổi lều bều.
Tới lui bịn rịn bầy tôm tép,
Đưa đón lao xao lũ quạ diều.
Một trận gió dồn cùng sóng dập
Tan tành xương thịt biết bao nhiêu.

Thảm cảnh một xác chó, dưới một góc độ nào đó, cũng ẩn dụ thân phận con người.

Nói đến Mỹ Tho, chạnh nhớ đến nhà thơ Phạm Công Thiện, quê miệt ấy, khoảng 1970, trôi dạt sống tại Paris, đi lang bang trong chợ trời Montreuil, có bài thơ thân phận :

Thân anh như con chó
Treo bảng bán chợ chiều
Một lần em qua đó
Con chó đứng nhìn theo…

Một bạn thơ khác, Luân Hoán có một thi phẩm tên Trôi Sông, lấy ý từ thành ngữ “lạc chợ trôi sông”, nói lên cảnh chìm nổi, trôi giạt của một thế hệ thanh niên. Bạn bè nghịch ngợm lại đùa, cho rằng anh lấy ý ở ca dao : Em như cục cứt trôi sông / Anh như con chó đứng trông trên bờ.

Dĩ nhiên là chuyện đùa vui giữa bạn bè thân thiết. Chốn văn học nghiêm trang, không ai dám nói thế.

Nhưng dường như các nhà thơ phía Nam ưa tả chó : Nguyễn đình Chiểu (1822-1888), tả cảnh lụt : Lổm xổm giường cao thấy chó ngồi. Tuy là cảnh hiện thực, nhưng ý lấy từ thành ngữ chó nhảy bàn độc, ám chỉ những tiểu nhân đắc chí trong cảnh mất nhà tan, bốn mặt giang sơn ngập cả rồi.

*

Giữa chó và lịch sử dân tộc truyền thuyết dân gian đã thiết lập mối quan hệ lâu đờI : An Dương Vương Thục Phán chấm dứt triều đại các vua Hùng, lên ngôi năm 258 trước Tây lịch, dời đô từ miền trung du Vĩnh Phú về miệt đồng bằng Sông Hồng. Vua định đô tại làng Tó (Uy Nỗ), rồi dời về gò Cổ Loa là theo chân… đàn chó, có lẽ là chó săn vì các thủ lãnh bộ lạc là những thợ săn lỗi lạc – Lê Lợi về sau cũng vậy. Con chó được vua sủng ái nhất, có lẽ là chủ soái đàn chó săn, cũng dời về Cổ Loa để lót ổ đẻ con. Ngày nay, dân địa phương còn chọn nơi chó đẻ để làm nhà, cho là đất phát phúc (3).

Ông vua xây dựng cơ chế quốc gia độc lập lâu dài cho nước Đại Việt là Lý Công Uẩn, sinh năm Giáp Tuất, 974, cầm tinh chó. Truyền thuyết kể rằng bà mẹ họ Phạm sống trong chùa, nằm mơ thấy thần chó đá và thụ thai. Sinh con trai, bà mang đến chùa Cổ Pháp và con chó bằng đồng của chùa bỗng sủa mừng ; Sư cụ là Lý Khánh Vân cho là điềm lành, ứng vào sấm ký của chùa, rước nuôi đứa bé và đặt tên Công Uẩn, cho mang họ của mình. Cậu bé theo học thầy Vạn Hạnh, thành đạt, làm tướng giỏi, sau lên ngôi vua, 1009.

Năm sau, Canh Tuất 1010, Lý Thái Tổ dời đô từ Hoa Lư về thành Đại La, gần Cổ Loa, đặt tên Thăng Long. Lúc dời đô, có con chó cái bơi từ Cổ Pháp vượt sông Hồng, theo vua, về lót ổ đẻ bên Hồ Tây, chỗ hồ Trúc Bạch bây giờ còn dấu tích. Truyền thuyết khác, kể rằng con chó Cổ Pháp vượt sông lót ổ đẻ trên núi Nùng, nên Lý Thái Tổ dời đô về phía ấy và chọn núi Nùng làm chính diện, lập đền thờ. Đại Việt Sử Ký Toàn Thư còn kể chuyện con chó châu Cổ Pháp, đẻ con sắc trắng có đốm đen thành ra hai chữ “thiên tử”, kẻ thức giả nói đó là điềm người sinh vào năm Tuất làm thiên tử, quả là ứng nghiệm (vào Lý Công Uẩn).

Chó – Champa – thế kỷ thứ 6 

.

Dĩ nhiên đây là huyền thoại. Nhưng huyền thoại do đâu mà ra ? Học giả Kiều Thu Hoạch, trong một bài báo nghiêm túc, cho rằng do tục thờ chó đá cổ truyền, còn vết tích tại Hà Nội, như Tô Hoài đã kể cặn kẽ trong Chuyện Cũ Hà Nội, 1998, mục Con Chó Đá . Và một vài nơi khác ở Hà Tây, và Vĩnh Phúc. Ông Kiều Thu Hoạch trích dẫn chính xác nhiều sách Hán Nôm ghi lại những truyền thuyết về chó và vua Lý Thái Tổ (4).

.

*

Chế độ thuộc địa Pháp cáo chung vào năm 1945 và dẫn đến cuộc chiến tranh Việt Pháp. Người lính da trắng đầu tiên của Việt Minh là Erwin Borchers lấy tên Việt Nam là Chiến Sĩ và có lẽ là công thần ngoại quốc số một. Ông là lính lê dương gốc Đức, thuộc quân số Trung Đoàn 5 REI lừng danh, quan hệ với phong trào Việt Minh từ 1944 vì chuyện… một con chó ! Ông kể lại là đã chứng kiến hai cảnh ngộ : một đầu bếp Việt Nam thịt con chó của ông chủ người Pháp, thì lãnh một tháng tù ; còn anh lính lê dương đâm chết một phu xe Việt Nam vì kì kèo tiền xe thì lãnh 15 ngày tù : vậy sinh mệnh con người Việt Nam chỉ đáng giá nửa con chó tây. Đây là khởi điểm một ý thức chính trị đã đưa ông đến quyết định đào ngũ và hợp tác với phong trào giải phóng, chủ yếu là viết bài cho báo Le Peuple, về sau phụ trách huấn luyện, phục kích và địch vận, quân hàm thiếu tá (5).

Những ngày đầu toàn quốc kháng chiến, Quang Dũng là một tác giả hiếm hoi ghi lại đôi mắt con chó, khi Trung Đoàn Thủ Đô rút quân :

Nhớ buổi trung đoàn ta ra đi
Dân ta gánh gồng cả cơ nghiệp
Mái nhà trăm năm thôi để lại
Lạc chủ chó gầy mắt hoang dại

(1947, Sử Một Trung Đoàn)

Khi phát động du kích, 1947, những hy sinh hằng loạt đầu tiên, là những con chó, để bảo vệ bí mật chuyển quân. Hai mươi năm sau, 1968, trong vụ Tổng công kích Mậu Thân, những ngày áp Tết, loài chó, một lần nữa lại nhất loạt hy sinh. Sau trận tập kích, những con chó lạc chủ lang thang lại mất mạng. Cứ mỗi lần đất nước có biến động lớn lao, loài chó là những nạn nhân tiền tiêu. Và món thịt cầy cũng tùy nghi thăng trầm, phát triển, chúng tôi xin miễn dẫn chứng hay lý luận chi tiết ở đây, e mất vui ngày Tết.

Bửu Chỉ – ký họa

Lạ một điều : thơ đương đại ít khi tả chó, dù nó vẫn là bóng dáng và âm vang quen thuộc của làng quê. Trong tập « Bức tranh Quê », 1941, Anh Thơ đã tả chó sáu lần. Huy Cận thường tả cảnh nông thôn, nhắc đến nhiều súc vật, mà dường như không tả chó. Hay là nhà thơ Ngô văn Phú, chuyên viên về đời sống nông thôn, trong một tuyển tập dày cộm gồm 400 bài, chỉ một lần tả chó, mà là chó đất làm đồ chơi, con tò he (6).

Người đọc khó bề giải thích sự việc này bằng chính sách, lập trường. Tuy nhiên ta có thể nhận xét trong thơ đương đại, những tác giả bên lề đường lối, lại thường nhắc đến chó : Phùng Cung trong tập thơ Xem Đêm, 1995, có đến những mười bài nói đến chó, Hoàng Hưng có nhiều bài thơ về đề tài này :

Chó Đen và Đêm (7)

1
Con chó
Con chó đen
Con chó đen chạy vào đêm
Đêm gừ gừ, ấm ấm

2
Chó đen sủa bông sứ máu
3
Chó đen ngửa mặt nhìn trăng
4
Chó đen rin rít những điều khó hiểu
Hồn ai đang lang thang trong đêm

5
Buồn quá chó ơi
Ai cũng bỏ ta rồi
Phì phì mày ghếch mõm vào môi

6
Chó đen sùng sục suốt đêm
Nỗi ngứa ngáy tiền kiếp
Phát điên vì không nói được

Chó ở đây không phải là một súc vật có thật – nó sẽ là chó Mực – mà biểu tượng cho bóng tối, đau thương, cô đơn, u uẩn, uất ức. Trong tập thơ Hành Trình mới đây, 2005, Hoàng Hưng lại có bài Chó Rừng u uất như vậy.

Cùng cảm hứng này, Tuệ Sĩ có bài Tĩnh Thất (8) dài 32 khổ, làm năm Tân Tỵ, hai khổ 5 và 6 như sau :

Lon sữa bò nằm im bên chợ
con chó lạc
đến vỗ nhịp
trời mưa
Tôi lang thang
đi tìm cọng cỏ
Nó nhìn tôi
vô tư..
Trời cuối thu se lạnh
Chó giỡn nắng bên hè
Nắng chợt tắt
Buồn lê thê.

Trong các bộ môn văn học nghệ thuật, thơ là một thể loại nặng tính cách chủ quan, riêng tây, nhưng ngược lại, cũng giàu chất đại đồng (universalité) nhất ; những câu thơ Tuệ Sĩ, Hoàng Hưng, Phùng Cung là cách nhìn, cảm xúc cá nhân, nhưng như xé ra những mảng da thịt rớm máu từ lịch sử dân tộc. Những biểu tượng tù đày, oan khiên, tuyệt vọng không nói nên lời. Để có cái nhìn thảm thiết kia, các tác giả phải trải qua những nghịch cảnh, những oan khuất. Họ không làm thơ ngẫu hứng, tự trào, ngâm vịnh buồn vui ; họ cũng không đẽo gọt những hình ảnh văn chương trác tuyệt lưu lại cho sử sách, do đó mà đã sử dụng hình ảnh con chó, vốn được yêu thương và bị nguyền rủa và… thưởng thức. Nghiệm trong lịch sử dân tộc gần đây, không ai, và không cái gì là vô tội, con chó cùng chung số phận : chó là một gia súc bán hợp pháp, một hồ sơ chưa kịp, hay chưa cần thụ lý.

*

Hình ảnh con chó đa dạng, đa nghĩa, hàm súc, thâm trầm và hoa mỹ nhất là trong thơ Tô Thùy Yên, tôi đếm được 15 lần trong hơn 30 năm – nhất định là thiếu sót.

Bài Vườn Hạ tạo nên không gian an bình, hạnh phúc, như thiên đường xanh những mối tình thơ dại trong thơ Baudelaire :

Mênh mang lưu thủy trường trăng lạnh
Con chó tung tăng giỡn bóng mình
Mương nước rì rào sao sáng thở
Đài hoa sương nạm hạt lân tinh
 (9)
Thơ Tuyển, tr.93

Tác giả không ghi thời điểm sáng tác ; dường như là khoảng 1974. Bài thơ gồm 17 khổ thật hay, về hạnh phúc của quê hương thơ ấu miền Nam Bộ. Trong không gian thiên đường xa xôi ấy, cảnh tử biệt sinh ly vẫn êm ả, thơ mộng :

Con chim lạc bạn kêu trời rộng
Hồn chết trôi miền dạ lý hương

Thơ Tuyển, tr.94

Nhưng chiến tranh đã ập đến. Cuộc tranh chấp năm châu thế giới đã òa ập xuống đầu một dân tộc nhỏ bé, trên quê hương mong manh trăng tơ và nắng lụa :

Xa nghe đợt gió lên cơn bão
Nhân loại quay cuồng biến đổi sâu
Bầy chó năm châu cắn sủa rộ
Quỷ ma cười khóc rợn đêm thâu…

Thơ Tuyển, tr. 46

Tiếp theo là hình ảnh con chó, trong bài Mùa Hạn, 47 khổ, làm trong trại tù Nghệ Tĩnh, năm 1979 :

Làng mạc giờ đây đã trống trơn
Con dê con chó cũng không còn
Người đi bỏ xác nơi bờ bụi
Miếu sạt, thần hoàng rũ héo hon

Con chó không còn, nhưng vẫn còn tiếng tru rân :

Cái chết tru rân giờ nguyệt tận
Máu bung từ mỗi lỗ chân lông
Mọi người nghe chính mình kêu rú
Liệu sáng mai còn ai nữa không ?

Thơ Tuyển, tr.104-103

Sau 13 năm tù, tác giả sang định cư tại Hoa Kỳ từ 1993. Bài Nhà Xưa, Lửa Cất Ủ, trong Thắp Tạ, gồm 21 đoạn, làm năm 1997 :

Nghe trong xanh thẳm thời gian
Dai dẳng
Tiếng con chó nhỏ bên hè
Sủa bóng trăng lu

Bàn thờ nhện giăng
Nói chi cơm cúng
Tội cho hồn con chó nhỏ vẫn nằm chờ
Mơ màng người chủ vừa ra đi.

Đây là cảnh ngộ của nhiều người, tiêu biểu cho một giai đoạn lịch sử. Nhà thơ gửi thêm vào một hoài niệm riêng :

Em đứng lại, khóc cựu tình sơ ngộ
Nghe hồn con chó nhỏ quấn mừng em.

Thắp tạ, tr. 60,62 và 66

Nhưng rồi con chó già đi, hao mòn ký ức :

Nắng mưa thấm thoát đời ta
Mối mọt căn nhà rệu rã
Đòi phen năm tháng cũ dò về
Chó già lạ hơi sủa
Chuyện đời như thất thiệt
Vàng đá còn không giữ nổi mình
Biết nhờ đâu xác chứng ?
… Quê nhà nghe nói có
Chỉ dấu tìm không ra

2002, Thắp tạ, tr.100-102

Con chó đeo đẳng mãi với thơ Tô Thùy Yên, càng ngày càng bi thiết. Trong bài mới làm hồi tháng 5-2005, anh tự xem mình là “Khất giả” :

Chỉ mong đồng loại chớ xua đuổi
Giờ này thế giới kín khuya khoắt,
Còn cửa nào cho ta gõ đây ?
Lũ chó sủa rong theo
Quả đáng ngờ vực, mọi nhân dạng
 (10)

Câu cuối chua xót : con người mất xứ sở, mất tài sản tinh thần, may còn tiếng nói tùy thân, mất niềm tin, nơi mình, nơi kẻ khác. Ngờ vực cả nhân gian, nhân dạng, cả nhân tình, nhân tính. Lũ chó sủa rong theo là một biểu tượng cay nghiệt và cay đắng.

*

Trong tiếng Việt, chó là lời nguyền rủa. Thường thường là nặng nề và oan ức. Con chó tự nó không có gì xấu ; cái ta cho là xấu là do con người sai khiến, luyện tập. Trong hoàn cảnh xã hội đảo điên, lịch sử nghiệt ngã, chó trở thành biểu tượng u uất, đa nghĩa, như trong đoạn thơ Tô Thùy Yên dưới đây :

Chuyện kể cốt qua đêm, nề chi chuyện kể lại
Chó tru, miền xa tối rợn gai
Nơi hốc đá một cành hoa đợi sáng nở
Đi. Đi qua. Đi qua nữa. Đi qua nữa nữa.

2003, Thắp tạ, tr. 116

Làm nhớ thơ Phùng Cung :

Chạng vạng chiều – rơi
Trên xóm nhỏ
Con chó hoang
Ngoạm vành khăn tang
Rượt theo lòng xóm
Tới ngã ba – nhớn nhác
Lại cắm đầu rượt tiếp
Phía trước mặt trời đang tắt
Vầng trăng đang mọc phía sau

(bài Chạng Vạng)

Những lời thơ thống thiết. Nhưng vẫn còn lóe lên một tia hy vọng, với một cành hoa đợi sáng nơi Tô Lang hay vầng trăng đang mọc phía sau của Phùng Quân

*

Gia đình chó – Nguyễn Tú Nghiêm

Chúng ta đã thấy con chó gắn bó thế nào với con người, văn học và lịch sử Việt Nam. Vì gắn bó, nó thành liên đới và chia sẻ số phận với con người. Mà không cứ gì là người Việt Nam.

Chó làm bạn, làm đồng minh với nhân loại từ 15.000 năm nay, khắp nơi trên mặt đất. Chó thời tiền sử giúp con người săn bắt, bồi dưỡng chất đạm cho lương thực, chó canh chừng giấc ngủ an toàn cho chủ nhân. Ăn ngon ngủ yên, con người gia tăng sức lực, và thảnh thơi hơn, để phát triển kinh nghiệm, ngôn ngữ, tín ngưỡng, chăn nuôi, nông nghiệp, tổ chức xã hội, chính trị, kinh tế. Nói khác đi, chó là kết quả, thành phần và tác nhân của các nền văn minh, văn hóa văn hiến. Dần dà, có lúc, có nơi người phụ chó, chứ ít khi chó phụ người.

Ngày Tết, nói chuyện chó, là nhắc lại chút nghĩa cũ càng.

E một mai có lìa tơ ý…

.

Đặng Tiến
Tết Bính Tuất,
Orléans, 22/01/2006

.

(1) Xuân Diệu, Thi hào dân tộc Nguyễn Du, tr. 39, nxb Văn Học, 1966, Hà Nội.

(2) Tô Thùy Yên, Thắp Tạ, tr. 128, nxb An Tiêm, 2004, Houston

(3) Trần Quốc Vượng, Vũ Tuấn Sán, Hà Nội Nghìn Xưa, nxb Văn Hóa Thông Tin, tr. 141, 1975, Hà Nội.

(4) Kiều Thu Hoạch, báo Văn Hóa Nghệ Thuật, tr.37-43, số 10-2005, Hà Nội.

(5) Jacques Doyan, Les Soldats Blancs de Ho chi Minh (Những người lính da trắng của Hồ chí Minh) tr. 45-46, nxb Faỷad, 1973, Paris.

(6) Ngô văn Phú, Tuyển Tập, tr. 407, nxb Hội nhà văn, 2000, Hà Nội.

(7) Hoàng Hưng, Người đi tìm mặt, tr. 33, nxb Văn Hóa Thông Tin, 1994, TPHCM.

(8) Tuệ Sĩ, Giấc Mơ Trường Sơn, tr. 74-75, nxb An Tiêm, 2002, Paris-San José.

(9) Tô Thùy Yên, Thơ Tuyển, tác giả xuất bản, 1995, Minnesota,.

Tô Thùy Yên, Khất Giả, Tạp Chí Gió Văn, tr 4, số 5, 2005, Texas.

MJ.R.

Catégories
Prose

MT3


Đặng Tiến (BP60) Năm nảo, năm nao, năm nào cũng vậy, mỗi lần Tết, viết báo Xuân, thì một ý tưởng lại về. Năm ngoái đã viết câu này, năm nay viết lại : quê tôi có câu hát ru thậm hay : Con mèo, con chó có lông,
Cây tre có mắt, nồi đồng có quai
Câu hát giàu chất thơ, nằm ngoài cái hay từ chương, học được ở nhà trường hoặc qua sách vở. Lời thơ đơn giản trong từ vựng cũng như bút pháp, và không mang một lượng thông tin nào đáng kể cho người nghe, vì chỉ nói lên những điều hiển nhiên, tầm thường, người người đều biết. Lời nói xem như không có nội dung, mà vẫn đứng vững được đời này sang đời khác ; như vậy, câu nói tự lấy mình làm nội dung, ngôn ngữ tự lấy mình làm cứu cánh. Đấy là một câu thơ đích thực, theo quan niệm hiện đại. Mà lại là một câu thơ hay, phần nào nhờ giàu nhạc tính, phụ âm k luyến láy ở những vị trí trọng yếu, làm nổi bật động từ có, vừa là sở hữu (avoir) vừa là hiện hữu (être). Bộ lông là hiện thân, là thành phần bản thể tự nhiên của con mèo, con chó. Câu thơ gợi lên một không gian im lìm, thân thuộc : mảnh vườn, góc sân, xó bếp, trong tâm trạng thư thái, hạnh phúc, tin cậy vào cuộc sống. Phong cảnh ở đây ngưng bóng thời gian, ngoại quan là một tâm cảnh, một tâm cảm dù không có chữ nào diễn đạt tâm tình. Giấy cắt – Vink 2006 Dù vậy, không phải ai ai cũng thích ; Xuân Diệu đã chê gắt gao : « đó là một kiểu mẫu về câu thơ vô vị (…) trần trụi như mèo chó đã bị vặt lông ( !) và nghe đến nó thì ống tre cũng không hứng thú gì mà có mắt nữa » ( !) (1). Tệ đến thế là hết nấc ! Về chó, ca dao ta còn có câu cực hay : Bực mình con chó nhỏ sủa dai
Sủa nguyệt lâu đài, sủa bóng trăng lu
Nhà thơ Tô Thùy Yên, khi trích dẫn câu này, đã bình luận : « nhóm từ ‘nguyệt lâu đài’ không rõ nghĩa, nhưng dàn dựng cho lời thơ một cảnh sắc hoang đường lạ lẫm. Thi tính, đôi khi nếu chẳng phải là thường khi, vượt ra ngoài những diễn luận thông phàm. Một trong những kỳ tích của thơ, có lẽ cũng của tình yêu nữa, là ôm cõng được cái thực tách khỏi chỗ thường nhật. Cái thực trong thơ là cái thực ròng » (2) Tô Thùy Yên sành văn học dân gian và do đó dè dặt hơn Xuân Diệu. Câu ca dao trách con chó sủa dai, phá giấc ngủ, lúc nào cũng sủa được : trăng lu cũng sủa, trăng sáng lại sủa. ‘Nguyệt lâu đài’ là cảnh trời mây huy hoàng tráng lệ khi trăng bỗng nhiên rực rỡ, đối lập với ‘bóng trăng lu’. Thơ Xuân Diệu : Đêm nay rằm yến tiệc sáng trên trời…
…Trăng đĩa ngọc giữa mâm trời huyền bí
Thơ Hàn Mạc Tử : Trăng tan tành rơi xuống một cù lao
Hóa đài điện đã rất nên tráng lệ

(Phan Thiết) Điều lạ làm lạc hướng Tô Thùy Yên, là một người thơ dân gian, vô danh, không chuyên nghiệp, đã sáng tạo ra được hình ảnh ‘sủa nguyệt lâu đài’, tân kỳ, hư ảo và diễm ảo. * Trong văn học thành văn, con chó cũng đã góp mặt rất sớm qua bài thơ Vô Đề, mở đầu Quốc Âm Thi Tập của Nguyễn Trãi, tác phẩm bình minh trong nền thi ca Việt Nam : Ao bởi hẹp hòi khôn thả cá
Nhà quen xú xứa ngại nuôi vằn
Ngày xưa nước ta con chó không có tên, được ô theo màu lông, con vằn, con vện, con mực, con khoang… Vằn, vện cùng nguồn gốc ngôn từ, là chữ văn trong Văn Lang, văn hóa, văn minh ; có khi phát âm ra vân trong quả cau nho nhỏ, cái vỏ vân vân… Câu thơ Nguyễn Trãi : xú xứa nghĩa là xuề xòa, xuềnh xoàng ; ngại nuôi vằn vì bạn mình ưa lục lọi, nên tục ngữ có lời khuyên : chó treo, mèo đậy ; nhà thơ mải lo tiếp mây khách khứa, nguyệt anh em ắt không mấy để tâm đến việc đậy điệm, treo leo. Vink – En passant le pont p.17 Tác phẩm Nguyễn Trãi còn lưu truyền đến nay là nhờ vua Lê Thánh Tông giải oan và ra lệnh sưu tầm ; Thánh Tông sống sót là do Nguyễn Trãi bao che, và lên ngôi nhờ công Nguyễn Xí phù lập. Nguyễn Xí lập sự nghiệp bắt đầu từ việc… nuôi chó : ông có tài điều khiển đàn chó săn hàng trăm con của Lê Lợi, trước khi cầm quân thời khởi nghĩa Lam Sơn và trở thành danh tướng. Bóng dáng, tiếng sủa của con chó gắn bó với phong cảnh làng mạc Việt Nam, được Nguyễn Khuyến ghi lại bằng câu thơ tài tình : Trâu già gốc bụi phì hơi nắng
Chó nhỏ bên ao cắn tiếng người
Lời lẽ nôm na, toàn những tiếng đơn âm, gợi lên phong cảnh, khí hậu buổi trưa hè Việt Nam trong những chi tiết độc đáo và chọn lọc, hơi thở mạnh của con trâu trong khí nóng bức và im ắng , khiến một âm hao nào đó của con người cũng đủ khuấy động không gian, làm giật mình con « chó nhỏ » thơ ngây. Câu thơ nôm na như vậy dễ làm người đọc quên nguyên tác bằng chữ Hán : Ngọa thụ bì ngưu hư thử khí
Cách trì tiểu khuyển phệ nhân thanh
Bài này Nguyễn Khuyến làm để tặng người anh họ là Đặng Tự Ý và tự dịch ra quốc âm. Có lẽ câu thơ dịch hay hơn nguyên tác, vì hợp tình hợp cảnh hơn. Thời thế đổi thay, con chó cũng đổi thay. Có lần Tổng đốc Nam Định là Vũ văn Báo, theo lệnh chính quyền Pháp, vời Nguyễn Khuyến đến nhà, có ý mời ra làm quan. Nguyễn Khuyến cùng đi với con cả là Nguyễn Hoan, vào đến cổng dinh tổng đốc thì gặp viên công sứ Pháp đi ra, lại bị con chó tây chồm lên cắn ; Nguyễn Khuyến hoảng hốt đẩy con ra chắn chó. Sau đó, trong câu chuyện với chủ nhân, ông đã làm thơ tức cảnh : Hốt đáo nhĩ môn phùng nhĩ cẩu
Cấp tương ngô tử thế ngô thân
Tạm dịch : Chợt đến cửa ngươi, gặp chó ngươi
Kíp đưa con mỗ thay thân mỗ
Không rõ đây là chuyện thật, hay là giai thoại , hư cấu theo chuyện Nguyễn Khuyến từ quan nhưng đẩy con trai, phó bảng Nguyễn Hoan, ra tham chính thay mình. Dù sao hình ảnh con chó tây xuất hiện ở đây, cũng đánh dấu một giai đoạn xã hội khác, đời mới, người mới, chó mới, như trong bài văn tế Ri-vi-e (Henri Riviere), chết tại trận Ô Cầu Giấy, năm 1883 : Nhớ ông xưa
Mắt ông xanh lè, mũi ông thò lõ
Đít ông cưỡi lừa, mồm ông huýt chó
Loại chó tây này, càng về sau, càng rõ nét hơn như trong bài thơ Thăm bạn, 1937 của Võ Liêm Sơn (1888-1949) : Lâu ngày đi thăm bạn
Đến ngõ chó tuôn ra
Những con to và béo
Tiếng sủa như đồng loa
Thấy chó biết nhà chủ
Làm ăn rày khá mà.
Thôi thế, cũng là đủ
Bất tất phải vào nhà.
Có những con chó làm cho con người gần nhau. Hay xa nhau. * Trong quá trình phát triển của đất nước, Nam Bộ gia nhập vào văn học muộn màng ; có khi nhờ vậy mà ít vướng mắc vào những kiêng dè đề tài, và đề cập nhiều đến chó. Huỳnh Mẫn Đạt (1807-1883) quê Gia Định, có bài thơ đề cao công trạng chó, tự ví mình với con chó già, than thân chó, trách phận mình, lời thơ ưu ái : Con chó già
Tuy rằng muông cẩu có ân ba
Răng rụng lâu năm nó phải già
Bởi đuổi hươu Tần nên mỏi gối
Vì lo khỉ Sở mới dùng da
Không ai trấn Bắc ngăn bầy cáo
Ít kẻ ngừa Tây giữ đứa tà
Mạnh mẽ khi xưa còn hớn hở
Bây giờ yếu đuối hết xông pha
(Hươu Tần, khỉ Sở : điển tích về việc tranh bá đồ vương thời Tần Hán, và nhiệm vụ săn bắt của loài chó) Nguyễn văn Lạc (1842-1915) thường được gọi là Học Lạc, quê Mỹ Tho, có bài thơ nhiều người biết : Chó chết trôi
Sống thì bắt thỏ, thỏ kêu rêu
Thác thả dòng sông xác nổi phều
Vằn vện xác còn phơi lửng dửng
Thúi tha danh hãy nổi lều bều.
Tới lui bịn rịn bầy tôm tép,
Đưa đón lao xao lũ quạ diều.
Một trận gió dồn cùng sóng dập
Tan tành xương thịt biết bao nhiêu.
Thảm cảnh một xác chó, dưới một góc độ nào đó, cũng ẩn dụ thân phận con người. Nói đến Mỹ Tho, chạnh nhớ đến nhà thơ Phạm Công Thiện, quê miệt ấy, khoảng 1970, trôi dạt sống tại Paris, đi lang bang trong chợ trời Montreuil, có bài thơ thân phận : Thân anh như con chó
Treo bảng bán chợ chiều
Một lần em qua đó
Con chó đứng nhìn theo…
Một bạn thơ khác, Luân Hoán có một thi phẩm tên Trôi Sông, lấy ý từ thành ngữ “lạc chợ trôi sông”, nói lên cảnh chìm nổi, trôi giạt của một thế hệ thanh niên. Bạn bè nghịch ngợm lại đùa, cho rằng anh lấy ý ở ca dao : Em như cục cứt trôi sông / Anh như con chó đứng trông trên bờ. Dĩ nhiên là chuyện đùa vui giữa bạn bè thân thiết. Chốn văn học nghiêm trang, không ai dám nói thế. Nhưng dường như các nhà thơ phía Nam ưa tả chó : Nguyễn đình Chiểu (1822-1888), tả cảnh lụt : Lổm xổm giường cao thấy chó ngồi. Tuy là cảnh hiện thực, nhưng ý lấy từ thành ngữ chó nhảy bàn độc, ám chỉ những tiểu nhân đắc chí trong cảnh mất nhà tan, bốn mặt giang sơn ngập cả rồi. * Giữa chó và lịch sử dân tộc truyền thuyết dân gian đã thiết lập mối quan hệ lâu đờI : An Dương Vương Thục Phán chấm dứt triều đại các vua Hùng, lên ngôi năm 258 trước Tây lịch, dời đô từ miền trung du Vĩnh Phú về miệt đồng bằng Sông Hồng. Vua định đô tại làng Tó (Uy Nỗ), rồi dời về gò Cổ Loa là theo chân… đàn chó, có lẽ là chó săn vì các thủ lãnh bộ lạc là những thợ săn lỗi lạc – Lê Lợi về sau cũng vậy. Con chó được vua sủng ái nhất, có lẽ là chủ soái đàn chó săn, cũng dời về Cổ Loa để lót ổ đẻ con. Ngày nay, dân địa phương còn chọn nơi chó đẻ để làm nhà, cho là đất phát phúc (3). Ông vua xây dựng cơ chế quốc gia độc lập lâu dài cho nước Đại Việt là Lý Công Uẩn, sinh năm Giáp Tuất, 974, cầm tinh chó. Truyền thuyết kể rằng bà mẹ họ Phạm sống trong chùa, nằm mơ thấy thần chó đá và thụ thai. Sinh con trai, bà mang đến chùa Cổ Pháp và con chó bằng đồng của chùa bỗng sủa mừng ; Sư cụ là Lý Khánh Vân cho là điềm lành, ứng vào sấm ký của chùa, rước nuôi đứa bé và đặt tên Công Uẩn, cho mang họ của mình. Cậu bé theo học thầy Vạn Hạnh, thành đạt, làm tướng giỏi, sau lên ngôi vua, 1009. Năm sau, Canh Tuất 1010, Lý Thái Tổ dời đô từ Hoa Lư về thành Đại La, gần Cổ Loa, đặt tên Thăng Long. Lúc dời đô, có con chó cái bơi từ Cổ Pháp vượt sông Hồng, theo vua, về lót ổ đẻ bên Hồ Tây, chỗ hồ Trúc Bạch bây giờ còn dấu tích. Truyền thuyết khác, kể rằng con chó Cổ Pháp vượt sông lót ổ đẻ trên núi Nùng, nên Lý Thái Tổ dời đô về phía ấy và chọn núi Nùng làm chính diện, lập đền thờ. Đại Việt Sử Ký Toàn Thư còn kể chuyện con chó châu Cổ Pháp, đẻ con sắc trắng có đốm đen thành ra hai chữ “thiên tử”, kẻ thức giả nói đó là điềm người sinh vào năm Tuất làm thiên tử, quả là ứng nghiệm (vào Lý Công Uẩn). Chó – Champa – thế kỷ thứ 6   . Dĩ nhiên đây là huyền thoại. Nhưng huyền thoại do đâu mà ra ? Học giả Kiều Thu Hoạch, trong một bài báo nghiêm túc, cho rằng do tục thờ chó đá cổ truyền, còn vết tích tại Hà Nội, như Tô Hoài đã kể cặn kẽ trong Chuyện Cũ Hà Nội, 1998, mục Con Chó Đá . Và một vài nơi khác ở Hà Tây, và Vĩnh Phúc. Ông Kiều Thu Hoạch trích dẫn chính xác nhiều sách Hán Nôm ghi lại những truyền thuyết về chó và vua Lý Thái Tổ (4). . * Chế độ thuộc địa Pháp cáo chung vào năm 1945 và dẫn đến cuộc chiến tranh Việt Pháp. Người lính da trắng đầu tiên của Việt Minh là Erwin Borchers lấy tên Việt Nam là Chiến Sĩ và có lẽ là công thần ngoại quốc số một. Ông là lính lê dương gốc Đức, thuộc quân số Trung Đoàn 5 REI lừng danh, quan hệ với phong trào Việt Minh từ 1944 vì chuyện… một con chó ! Ông kể lại là đã chứng kiến hai cảnh ngộ : một đầu bếp Việt Nam thịt con chó của ông chủ người Pháp, thì lãnh một tháng tù ; còn anh lính lê dương đâm chết một phu xe Việt Nam vì kì kèo tiền xe thì lãnh 15 ngày tù : vậy sinh mệnh con người Việt Nam chỉ đáng giá nửa con chó tây. Đây là khởi điểm một ý thức chính trị đã đưa ông đến quyết định đào ngũ và hợp tác với phong trào giải phóng, chủ yếu là viết bài cho báo Le Peuple, về sau phụ trách huấn luyện, phục kích và địch vận, quân hàm thiếu tá (5). Những ngày đầu toàn quốc kháng chiến, Quang Dũng là một tác giả hiếm hoi ghi lại đôi mắt con chó, khi Trung Đoàn Thủ Đô rút quân : Nhớ buổi trung đoàn ta ra đi
Dân ta gánh gồng cả cơ nghiệp
Mái nhà trăm năm thôi để lại
Lạc chủ chó gầy mắt hoang dại

(1947, Sử Một Trung Đoàn) Khi phát động du kích, 1947, những hy sinh hằng loạt đầu tiên, là những con chó, để bảo vệ bí mật chuyển quân. Hai mươi năm sau, 1968, trong vụ Tổng công kích Mậu Thân, những ngày áp Tết, loài chó, một lần nữa lại nhất loạt hy sinh. Sau trận tập kích, những con chó lạc chủ lang thang lại mất mạng. Cứ mỗi lần đất nước có biến động lớn lao, loài chó là những nạn nhân tiền tiêu. Và món thịt cầy cũng tùy nghi thăng trầm, phát triển, chúng tôi xin miễn dẫn chứng hay lý luận chi tiết ở đây, e mất vui ngày Tết. Bửu Chỉ – ký họa Lạ một điều : thơ đương đại ít khi tả chó, dù nó vẫn là bóng dáng và âm vang quen thuộc của làng quê. Trong tập « Bức tranh Quê », 1941, Anh Thơ đã tả chó sáu lần. Huy Cận thường tả cảnh nông thôn, nhắc đến nhiều súc vật, mà dường như không tả chó. Hay là nhà thơ Ngô văn Phú, chuyên viên về đời sống nông thôn, trong một tuyển tập dày cộm gồm 400 bài, chỉ một lần tả chó, mà là chó đất làm đồ chơi, con tò he (6). Người đọc khó bề giải thích sự việc này bằng chính sách, lập trường. Tuy nhiên ta có thể nhận xét trong thơ đương đại, những tác giả bên lề đường lối, lại thường nhắc đến chó : Phùng Cung trong tập thơ Xem Đêm, 1995, có đến những mười bài nói đến chó, Hoàng Hưng có nhiều bài thơ về đề tài này : Chó Đen và Đêm (7) 1
Con chó
Con chó đen
Con chó đen chạy vào đêm
Đêm gừ gừ, ấm ấm

2
Chó đen sủa bông sứ máu
3
Chó đen ngửa mặt nhìn trăng
4
Chó đen rin rít những điều khó hiểu
Hồn ai đang lang thang trong đêm

5
Buồn quá chó ơi
Ai cũng bỏ ta rồi
Phì phì mày ghếch mõm vào môi

6
Chó đen sùng sục suốt đêm
Nỗi ngứa ngáy tiền kiếp
Phát điên vì không nói được
Chó ở đây không phải là một súc vật có thật – nó sẽ là chó Mực – mà biểu tượng cho bóng tối, đau thương, cô đơn, u uẩn, uất ức. Trong tập thơ Hành Trình mới đây, 2005, Hoàng Hưng lại có bài Chó Rừng u uất như vậy. Cùng cảm hứng này, Tuệ Sĩ có bài Tĩnh Thất (8) dài 32 khổ, làm năm Tân Tỵ, hai khổ 5 và 6 như sau : Lon sữa bò nằm im bên chợ
con chó lạc
đến vỗ nhịp
trời mưa
Tôi lang thang
đi tìm cọng cỏ
Nó nhìn tôi
vô tư..
Trời cuối thu se lạnh
Chó giỡn nắng bên hè
Nắng chợt tắt
Buồn lê thê.
Trong các bộ môn văn học nghệ thuật, thơ là một thể loại nặng tính cách chủ quan, riêng tây, nhưng ngược lại, cũng giàu chất đại đồng (universalité) nhất ; những câu thơ Tuệ Sĩ, Hoàng Hưng, Phùng Cung là cách nhìn, cảm xúc cá nhân, nhưng như xé ra những mảng da thịt rớm máu từ lịch sử dân tộc. Những biểu tượng tù đày, oan khiên, tuyệt vọng không nói nên lời. Để có cái nhìn thảm thiết kia, các tác giả phải trải qua những nghịch cảnh, những oan khuất. Họ không làm thơ ngẫu hứng, tự trào, ngâm vịnh buồn vui ; họ cũng không đẽo gọt những hình ảnh văn chương trác tuyệt lưu lại cho sử sách, do đó mà đã sử dụng hình ảnh con chó, vốn được yêu thương và bị nguyền rủa và… thưởng thức. Nghiệm trong lịch sử dân tộc gần đây, không ai, và không cái gì là vô tội, con chó cùng chung số phận : chó là một gia súc bán hợp pháp, một hồ sơ chưa kịp, hay chưa cần thụ lý. * Hình ảnh con chó đa dạng, đa nghĩa, hàm súc, thâm trầm và hoa mỹ nhất là trong thơ Tô Thùy Yên, tôi đếm được 15 lần trong hơn 30 năm – nhất định là thiếu sót. Bài Vườn Hạ tạo nên không gian an bình, hạnh phúc, như thiên đường xanh những mối tình thơ dại trong thơ Baudelaire : Mênh mang lưu thủy trường trăng lạnh
Con chó tung tăng giỡn bóng mình
Mương nước rì rào sao sáng thở
Đài hoa sương nạm hạt lân tinh
(9)
Thơ Tuyển, tr.93 Tác giả không ghi thời điểm sáng tác ; dường như là khoảng 1974. Bài thơ gồm 17 khổ thật hay, về hạnh phúc của quê hương thơ ấu miền Nam Bộ. Trong không gian thiên đường xa xôi ấy, cảnh tử biệt sinh ly vẫn êm ả, thơ mộng : Con chim lạc bạn kêu trời rộng
Hồn chết trôi miền dạ lý hương

Thơ Tuyển, tr.94 Nhưng chiến tranh đã ập đến. Cuộc tranh chấp năm châu thế giới đã òa ập xuống đầu một dân tộc nhỏ bé, trên quê hương mong manh trăng tơ và nắng lụa : Xa nghe đợt gió lên cơn bão
Nhân loại quay cuồng biến đổi sâu
Bầy chó năm châu cắn sủa rộ
Quỷ ma cười khóc rợn đêm thâu…

Thơ Tuyển, tr. 46 Tiếp theo là hình ảnh con chó, trong bài Mùa Hạn, 47 khổ, làm trong trại tù Nghệ Tĩnh, năm 1979 : Làng mạc giờ đây đã trống trơn
Con dê con chó cũng không còn
Người đi bỏ xác nơi bờ bụi
Miếu sạt, thần hoàng rũ héo hon
Con chó không còn, nhưng vẫn còn tiếng tru rân : Cái chết tru rân giờ nguyệt tận
Máu bung từ mỗi lỗ chân lông
Mọi người nghe chính mình kêu rú
Liệu sáng mai còn ai nữa không ?

Thơ Tuyển, tr.104-103 Sau 13 năm tù, tác giả sang định cư tại Hoa Kỳ từ 1993. Bài Nhà Xưa, Lửa Cất Ủ, trong Thắp Tạ, gồm 21 đoạn, làm năm 1997 : Nghe trong xanh thẳm thời gian
Dai dẳng
Tiếng con chó nhỏ bên hè
Sủa bóng trăng lu

Bàn thờ nhện giăng
Nói chi cơm cúng
Tội cho hồn con chó nhỏ vẫn nằm chờ
Mơ màng người chủ vừa ra đi.
Đây là cảnh ngộ của nhiều người, tiêu biểu cho một giai đoạn lịch sử. Nhà thơ gửi thêm vào một hoài niệm riêng : Em đứng lại, khóc cựu tình sơ ngộ
Nghe hồn con chó nhỏ quấn mừng em.

Thắp tạ, tr. 60,62 và 66 Nhưng rồi con chó già đi, hao mòn ký ức : Nắng mưa thấm thoát đời ta
Mối mọt căn nhà rệu rã
Đòi phen năm tháng cũ dò về
Chó già lạ hơi sủa
Chuyện đời như thất thiệt
Vàng đá còn không giữ nổi mình
Biết nhờ đâu xác chứng ?
… Quê nhà nghe nói có
Chỉ dấu tìm không ra

2002, Thắp tạ, tr.100-102 Con chó đeo đẳng mãi với thơ Tô Thùy Yên, càng ngày càng bi thiết. Trong bài mới làm hồi tháng 5-2005, anh tự xem mình là “Khất giả” : Chỉ mong đồng loại chớ xua đuổi
Giờ này thế giới kín khuya khoắt,
Còn cửa nào cho ta gõ đây ?
Lũ chó sủa rong theo
Quả đáng ngờ vực, mọi nhân dạng
(10) Câu cuối chua xót : con người mất xứ sở, mất tài sản tinh thần, may còn tiếng nói tùy thân, mất niềm tin, nơi mình, nơi kẻ khác. Ngờ vực cả nhân gian, nhân dạng, cả nhân tình, nhân tính. Lũ chó sủa rong theo là một biểu tượng cay nghiệt và cay đắng. * Trong tiếng Việt, chó là lời nguyền rủa. Thường thường là nặng nề và oan ức. Con chó tự nó không có gì xấu ; cái ta cho là xấu là do con người sai khiến, luyện tập. Trong hoàn cảnh xã hội đảo điên, lịch sử nghiệt ngã, chó trở thành biểu tượng u uất, đa nghĩa, như trong đoạn thơ Tô Thùy Yên dưới đây : Chuyện kể cốt qua đêm, nề chi chuyện kể lại
Chó tru, miền xa tối rợn gai
Nơi hốc đá một cành hoa đợi sáng nở
Đi. Đi qua. Đi qua nữa. Đi qua nữa nữa.

2003, Thắp tạ, tr. 116 Làm nhớ thơ Phùng Cung : Chạng vạng chiều – rơi
Trên xóm nhỏ
Con chó hoang
Ngoạm vành khăn tang
Rượt theo lòng xóm
Tới ngã ba – nhớn nhác
Lại cắm đầu rượt tiếp
Phía trước mặt trời đang tắt
Vầng trăng đang mọc phía sau

(bài Chạng Vạng) Những lời thơ thống thiết. Nhưng vẫn còn lóe lên một tia hy vọng, với một cành hoa đợi sáng nơi Tô Lang hay vầng trăng đang mọc phía sau của Phùng Quân * Gia đình chó – Nguyễn Tú Nghiêm Chúng ta đã thấy con chó gắn bó thế nào với con người, văn học và lịch sử Việt Nam. Vì gắn bó, nó thành liên đới và chia sẻ số phận với con người. Mà không cứ gì là người Việt Nam. Chó làm bạn, làm đồng minh với nhân loại từ 15.000 năm nay, khắp nơi trên mặt đất. Chó thời tiền sử giúp con người săn bắt, bồi dưỡng chất đạm cho lương thực, chó canh chừng giấc ngủ an toàn cho chủ nhân. Ăn ngon ngủ yên, con người gia tăng sức lực, và thảnh thơi hơn, để phát triển kinh nghiệm, ngôn ngữ, tín ngưỡng, chăn nuôi, nông nghiệp, tổ chức xã hội, chính trị, kinh tế. Nói khác đi, chó là kết quả, thành phần và tác nhân của các nền văn minh, văn hóa văn hiến. Dần dà, có lúc, có nơi người phụ chó, chứ ít khi chó phụ người. Ngày Tết, nói chuyện chó, là nhắc lại chút nghĩa cũ càng. E một mai có lìa tơ ý… . Đặng Tiến
Tết Bính Tuất,
Orléans, 22/01/2006 . (1) Xuân Diệu, Thi hào dân tộc Nguyễn Du, tr. 39, nxb Văn Học, 1966, Hà Nội. (2) Tô Thùy Yên, Thắp Tạ, tr. 128, nxb An Tiêm, 2004, Houston (3) Trần Quốc Vượng, Vũ Tuấn Sán, Hà Nội Nghìn Xưa, nxb Văn Hóa Thông Tin, tr. 141, 1975, Hà Nội. (4) Kiều Thu Hoạch, báo Văn Hóa Nghệ Thuật, tr.37-43, số 10-2005, Hà Nội. (5) Jacques Doyan, Les Soldats Blancs de Ho chi Minh (Những người lính da trắng của Hồ chí Minh) tr. 45-46, nxb Faỷad, 1973, Paris. (6) Ngô văn Phú, Tuyển Tập, tr. 407, nxb Hội nhà văn, 2000, Hà Nội. (7) Hoàng Hưng, Người đi tìm mặt, tr. 33, nxb Văn Hóa Thông Tin, 1994, TPHCM. (8) Tuệ Sĩ, Giấc Mơ Trường Sơn, tr. 74-75, nxb An Tiêm, 2002, Paris-San José. (9) Tô Thùy Yên, Thơ Tuyển, tác giả xuất bản, 1995, Minnesota,. Tô Thùy Yên, Khất Giả, Tạp Chí Gió Văn, tr 4, số 5, 2005, Texas.
Catégories
Prose

Au Vietnam, à la recherche d’un père disparu

L’anniversaire de la bataille de Diên Biên Phu remet la proche histoire vietnamienne à l’honneur. À Da Nang, Olivier Page a accompagné un jeune Vietnamien à la recherche de son père. Une enquête qui nous plonge dans l’histoire de Nguyen Van Hau, officier vietnamien porté disparu pendant la guerre.

© Nguyen Chi Dung

C’était il y a vingt-neuf ans

La chute de Da Nang : le chaos

Dans la débâcle

L’effet de panique

La disparition de Nguyen Van Hau

À la recherche du père disparu

On a retrouvé la tombe : info ou intox ?

La quête du Graal dans les rizières

 :: C’était il y a vingt-neuf ans

C’était le 30 mars 1975, c’était il y a vingt-neuf ans. C’était presque hier. La France vivait à l’heure du giscardisme libéral tandis que la guerre du Vietnam approchait inéluctablement de son dénouement tragique. Ce 30 mars était un dimanche de Pâques. Les troupes nord-vietnamiennes entraient dans Da Nang, la deuxième ville du pays après Saigon, qui était alors la capitale de la République du Sud Vietnam. Pour les officiers sud-vietnamiens et américains, pour les journalistes et les observateurs de ce conflit, pour les simples citoyens du Sud, l’impensable venait d’arriver : la ville de Da Nang était tombée aux mains de l’ennemi : les communistes du Nord. Un mois plus tard, le 30 avril 1975, Saigon tomba à son tour, marquant la victoire définitive du Nord sur le Sud, la fin de la République du Sud-Vietnam, la réunification d’un pays déchiré par trente ans de guerre, mais aussi la fin des libertés et le début d’une longue nuit totalitaire pour un des peuples les plus pauvres de la planète. Mais la chute de Saigon, aussi importante soit-elle dans le déroulement de la guerre, a occulté la chute de Da Nang. Pourtant des choses bien plus graves se passèrent à Da Nang : ce fut un drame humain sans précédent. Auteur de Cruel Avril (Éditions Robert Laffont), le journaliste Olivier Todd a suivi le conflit de près. Pour lui : « Aucune ville à travers toute l’Indochine, même pas Saigon, n’a été autant marquée par la guerre ».

 :: La chute de Da Nang : le chaos

Pendant la guerre du Vietnam, Da Nang fut une base stratégique essentielle pour l’armée américaine et ses alliés militaires de la République du Sud Vietnam. Située dans le centre géographique du pays, à près de 1 000 km au nord de Saigon, la ville est abritée au fond d’une vaste rade, et protégée des vents de la mer de Chine par la grosse montagne de Son Tra. Da Nang avait de quoi plaire aux stratèges. Appelée Tourane par les Français au XIXe siècle qui la bombardèrent sous le règne de Napoléon III, elle se développa et devint le grand port de l’Annam (ancien nom de cette région centrale). Da Nang, ce nom réjouissait les marines US qui étaient envoyés à China Beach pour des séjours de repos mérité (rest and recreation). Après avoir connu l’enfer des combats dans les jungles contre un ennemi invisible, les boys goûtaient à la douceur des grandes plages de sable, bordées de casuarinas (filaos).

En fait, tout avait commencé là. En 1965, la plage de My Ke, près de Da Nang, accueillit les premiers contingents de marines envoyés par le président américain Johnson pour combattre l’avancée du communisme en Indochine. De Da Nang, les Américains se lancèrent dans ce combat qui devint une guerre sans que celle-ci n’ait jamais été déclarée. Da Nang n’était pas très loin de la ligne de front et du 17e parallèle, qui marquait alors la frontière entre la République du Nord (communiste) et celle du Sud (capitaliste). Suite aux accords de Genève signés en 1954 après la bataille de Diên Biên Phu, les Français vaincus se retirèrent de la partie nord du Vietnam, et la partie sud devint une république indépendante, libre et alignée sur l’Occident. Au Nord, l’oncle Hô – pseudonyme pour Hô Chi Minh – créa une république socialiste alliée des Soviétiques, avec un des régimes les plus sévères qui soit. Au Sud, un Vietnam capitaliste et libre, plus riche que la Corée du Sud ne l’était à cette époque. La guerre continua.

 :: Dans la débâcle

Le 30 mars 1975, Da Nang fut prise de panique, après avoir été pilonnée par les canons de l’armée nord-vietnamienne pendant trois jours. Un obus tomba sur le central des communications. Le contact radio avec Saigon fut rompu. Des dizaines de milliers de réfugiés chassés par les combats s’entassaient dans la ville, campant dans les écoles, s’ajoutant aux 600 000 habitants qui y vivaient en situation normale. Devant le danger imminent qui se profilait, leur objectif était clair : fuir avant qu’il ne soit trop tard. Au large, une armada de navires sud-vietnamiens, coréens, taiwanais, attendait l’ordre d’évacuation. Le président Ford avait dépêché des navires américains. Les dépôts de munition et les réserves de carburant furent abandonnés un à un par leurs employés. La ville fut livrée au chaos, à l’anarchie. Des pillards et des hommes ivres erraient dans les rues. Les soldats, les sous-officiers, les officiers cherchaient leurs familles. La situation dramatique empira d’heure en heure. La route côtière qui longe le littoral du nord au sud étant coupée, il était devenu impossible de fuir Da Nang par voie terrestre. Une solution était de fuir par les airs.

 :: L’effet de panique

Sur l’aéroport civil de Da Nang, la foule des réfugiés grossissait d’heure en heure. On criait, on hurlait, on se piétinait. On empêchait les passagers d’embarquer dans les avions. Des femmes, des enfants, des soldats en déroute envahissaient les bâtiments et les pistes déjà encombrées de jeeps et de camions abandonnés. Les avions ne pouvaient décoller qu’avec difficulté. Et ceux qui parvenaient à le faire avaient du mal à fermer les portes, bloquées par les mains ou les bras de ceux qui tentaient en vain d’y embarquer. Il fallait se battre. Un homme, accroché au train d’atterrissage d’un avion, s’en détacha, puis tomba dans le vide, quelques secondes après le décollage de l’engin.

Pour les civils, il devint impossible de fuir Da Nang par les airs. Il ne restait que la mer. Là aussi, la situation était dramatique. Sur le port de Da Nang, les milliers de fuyards s’agglutinaient sur les quais dans le plus grand désordre. Ils se bousculaient pour monter à bord des barques, des péniches et des bateaux de pêche pour gagner le large. Certains radeaux confectionnés à la va-vite chaviraient, des embarcations de fortune furent touchées par les obus de l’artillerie nord-vietnamienne installée au col des Nuages. L’armée du Nord avait prévenu son ennemi : on tirera sur toutes les embarcations à la sortie de la rade, qu’il y ait des civils ou pas à bord. La surface de l’eau reflétait l’horreur de cette débâcle : morceaux de pneus, paquetages abandonnés, objets flottants, vêtements déchirés, et même des cadavres oubliés à la dérive. Sinistre ! L’étau se resserra encore. Et Olivier Todd de constater : « L’évacuation de Da Nang dépasse tout ce qu’on a décrit, photographié, télévisé jusque-là comme scènes atroces ».

 :: La disparition de Nguyen Van Hau

Le lieutenant-colonel Nguyen Van Hau faisait partie de ces nombreux sous-officiers et officiers de l’armée sud-vietnamienne qui cherchaient à s’enfuir par tous les moyens. L’ordre d’évacuation militaire de Da Nang ayant été donné, il souhaitait ardemment rejoindre au plus vite sa femme et ses enfants envoyés par sécurité à Saigon quelques années avant que la situation militaire ne s’aggrave. Il leur avait dit en les quittant : « Je resterai à Da Nang et dès que je le pourrai je vous rejoindrai à Saigon ». Né en 1926 au village de Nuoc Ngot (L’Eau Douce), Hau avait grandi au milieu des rizières, entre les montagnes et la mer, non loin du col des Nuages et de la ville de Hué. C’est dans l’ancienne cité impériale, sur les bancs de l’école Pellerin, qu’il apprit la langue française, à côté de son frère Nguyen Van Dzu, plus âgé que lui de quelques années. Avec Dzu, la complicité était très forte. Ces deux Vietnamiens francophones faisaient tout ensemble, partageaient tout. Jusqu’au jour où les deux adolescents choisirent des chemins différents. Brillant élève, aussi doué en maths qu’en littérature, Hau passa son bac et commença une licence de lettres qu’il ne put terminer, car il s’engagea dans l’armée du Sud. Son frère Dzu s’engagea dans les années cinquante dans le combat contre les Français et rejoignit les maquis du Nord-Vietnam où il devint un soldat modèle de Hô Chi Minh. Les deux frères s’adoraient, mais ils devinrent par la force des choses des frères ennemis sur le plan politique et militaire. Ils ne se revirent plus jamais.

Après des voyages en France (en bateau de Saigon à Marseille), au Maroc et un stage de formation à Washington, Hau fit carrière et obtint le grade de lieutenant-colonel dans l’aviation du Sud-Vietnam. Il fit la guerre dans les airs tout en partageant le même sentiment ambigu que ses collègues : la guerre ne se gagnerait pas dans les airs, mais sur terre, d’une manière classique. On lui proposa même de devenir général, mais il refusa ce poste, car au fond de lui-même il n’aimait pas le métier des armes. Il préférait de loin écrire des poèmes, ce qu’il fit dans sa jeunesse et tout au long de sa vie. Ses collègues ne l’avaient-ils pas surnommé « le poète de l’armée de l’air » ? Après tout, ne s’était-il pas engagé pour avoir la sécurité de l’emploi et nourrir sa famille ? Pour le lieutenant-colonel Hau, dans le chaos du 30 avril 1975, il était naturel de quitter Da Nang à bord d’un hélicoptère de l’armée. Il roula quelques kilomètres au volant de sa 2CV Citroën en direction d’un deuxième aéroport militaire situé près de la Montagne de Marbre, une éminence rocheuse couverte de végétation tropicale qui se dresse tel un pain de sucre face à la mer de Chine. Puis, on ne sait pourquoi, il abandonna son véhicule au bord de la route. Des témoins s’en souviennent. Ils ont vu la 2 CV. Passé ce moment, nous entrons dans le chapitre des conjectures et des hypothèses. Le lieutenant-colonel Nguyen Van Hau se serait donc embarqué dans un hélicoptère, avec d’autres soldats et officiers, plus tard l’hélicoptère se serait écrasé quelque part entre Da Nang et Saigon. Mais où ? En mer ? Pour son fils Nguyen Chi Dung (appelons-le Dung), qui a entrepris des recherches et que j’accompagne sur place, cette hypothèse de la chute en mer serait la plus plausible. Dans ce cas, autant chercher une aiguille dans un tas de foin. Et si l’hélicoptère de Hau s’était écrasé dans la forêt ? Aurait-il percuté une montagne en survolant la cordillère annamitique ? Aurait-il soudain manqué de carburant ? Aurait-il été abattu par un tir de canon ? Et si, et si, et si… Autant de suppositions, et de questions restées en suspens, qui hantent Dung, trente ans après la disparition inexpliquée de son père. Il n’a jamais obtenu de précisions sur cette fin tragique. Pas de témoignage exact et fiable. Le corps du lieutenant-colonel Hau n’a jamais été retrouvé. Il est donc classé parmi les soldats disparus au combat (MIA, abréviation pour Missing In Action). Le bon sens veut que Nguyen Van Hau soit mort, mais en réalité il a disparu. Par conséquent, la famille Nguyen n’a jamais pu faire le deuil de l’époux, et du père, ni lui donner une sépulture honorable. Un chagrin lourd pour tout Vietnamien attaché au culte des ancêtres, pivot de leur spiritualité.

 :: À la recherche du père disparu

Nguyen Van Hau disparu, sa femme et ses enfants passèrent des semaines à l’attendre en vain à Saigon. En mars 1975, son fils Nguyen Chi Dung était âgé de dix-neuf ans. Aujourd’hui, il a quarante-sept ans et n’a rien oublié du passé. L’absence de nouvelles de son père lui pèse toujours autant. Né à Da Nang en 1956, Dung a passé son enfance dans cette ville, où il habitait une maison dans un quartier résidentiel, située au 35, rue Than Son (de 1967 à 1973). Il fréquenta le lycée Blaise Pascal de Da Nang, jusqu’en 1973. Cette année-là, en raison de la guerre, l’établissement ferma ses portes. Avec sa mère et ses sœurs, il partit vivre à Saigon, poursuivant sa scolarité au lycée Marie Curie, l’établissement secondaire le plus réputé de la ville à cette époque. En mai 1974, il passa brillamment son bac. Le 30 mars 1975, il était étudiant à l’Université Polytechnique où il suivait des cours pour devenir ingénieur des Bâtiments et Travaux Publics. Chaque jour, il s’attendait à voir son père débarquer de son hélicoptère. Madame Nguyen et ses enfants vivaient dans l’angoisse. Dung vécut l’attente de son père comme une épreuve. « Pourquoi mon père n’arrive-il pas ? Que s’est-il passé ? Il est arrivé quelque chose de grave. Il n’est pas auprès de nous. »

Ainsi les journées se suivirent, avec l’espoir de le voir arriver qui diminuait au fur et à mesure que le temps s’écoulait. Puis ce fut la chute de Saigon le 30 avril 1975, qui marqua la fin de la guerre, et la mainmise du Nord communiste sur le Sud capitaliste. Le Vietnam privé de libertés, placé sous un régime de fer dans l’orbite du bloc soviétique, devint le pays le plus fermé de la planète. Dung et sa famille, comme des milliers (des millions !) de Vietnamiens, ne virent qu’une solution : quitter le pays. L’appel de la liberté fit de Dung un boat people, un candidat décidé à fuir coûte que coûte. Il tenta plusieurs fois de s’enfuir au péril de sa vie et de manière clandestine (la nuit, dans des conditions incroyables). Il fut capturé par la police, arrêté et enfermé pendant deux années dans un camp de travaux forcés, près de Ben Tre dans le delta du Mékong. Puis en 1990, il obtint des autorités françaises un visa d’accueil. En mars 1990, il débarqua à l’aéroport de Roissy avec le statut de réfugié politique et retrouva sa femme Trang et son jeune fils qu’il n’avait pas vu depuis un an et demi. Il était enfin sorti de ce cauchemar. Dung a refait sa vie en France. De 1990 à aujourd’hui, il ne s’est pas tourné les pouces. Ardent à la tâche, il est devenu ingénieur-informaticien. Il a trouvé du travail dans une entreprise privée. Il vit avec sa femme et ses deux enfants en région parisienne.

 :: On a retrouvé la tombe : info ou intox ?

Un jour de l’été 2003, une cousine de Dung installée aux États-Unis lui écrit : on a retrouvé la tombe de ton père Nguyen Van Hau. Aussitôt Dung lui téléphone pour avoir plus de détails. Et il décide d’aller à Da Nang pour retrouver la tombe paternelle et récupérer ses cendres afin de les rapatrier en France, où il souhaite les conserver dans une urne funéraire. C’est l’usage chez les bouddhistes. Je décide alors de l’accompagner au Vietnam. Nous arrivons à Hué en décembre, sous la pluie et les nuages de la mousson.

Commence alors une quête familiale et sentimentale qui ressemble à une enquête policière. Mais le mot « quête » n’est-il pas dans le mot enquête ? À Hué, Dung convoque un témoin qui aurait aperçu le premier la tombe paternelle. C’est un modeste chauffeur de xe om, un taxi-moto. Dung le questionne. Un jour, en cherchant la tombe de son propre père dans le petit cimetière de Son Tra, l’homme du taxi-moto nota l’inscription d’un nom sur l’une des sépultures : « Nguyen Van Hoi ». Ce nom ressemble à deux lettres près à celui de Nguyen Van Hau. Quelques semaines plus tard, le chauffeur prit une cliente sur sa moto. Au cours de la conversation, il lui raconta comment il avait retrouvé la tombe de son propre père et noté la présence de cette tombe voisine avec ce nom-là inscrit. Mais la cliente (une lointaine cousine de Dung) comprit mal le dernier mot du nom de famille. Elle avait entendu Hau alors qu’il s’agissait de Hoi ! Pour elle, il n’y eut aucun doute : c’était bel et bien quelqu’un de sa lignée. Mais avec le bruit du moteur et le vent qui cinglait son visage, la passagère avait confondu les noms. Résultat de cette méprise : l’information était faussée, et la piste de recherche n’aboutissait à rien. Le chauffeur de taxi-moto quitta Dung après une bonne heure de questionnement.

 :: La quête du Graal dans les rizières

Deux jours plus tard à Da Nang, Dung se rend à la mairie de la commune de Tho Quang pour y consulter les registres administratifs du cimetière de Son Tra. Il dépouille à la main plus de deux cents fiches, très bien tenues et complètes. Chaque fiche porte les noms, prénoms, date d’enterrement et date d’inhumation des corps, ainsi qu’une photo et le grade du défunt si celui-ci est un soldat de l’armée (du Sud ou du Nord). Une partie de ce cimetière ayant été déplacée en raison de la construction d’une nouvelle route, Dung craint que le corps de son père ait été inhumé par les autorités et déplacé sans qu’il en ait été informé. Faire des fouilles soi-même dans le cimetière ? Impossible, car à cette époque-ci de l’année, une partie des tombes étaient immergées dans l’eau débordante des rizières. Déception ! Aucun Nguyen Van Hau n’apparaît sur le registre. De retour à l’hôtel, un vieil ami de jeunesse lui rend visite. Il est à présent PDG d’une entreprise de fabrication de matériaux pour le bâtiment. Celui-ci, bien que vivant dans le monde rationnel, a gardé dans son esprit une poche de superstition. Il lui présente une astrologue : on ne sait jamais… Aucune piste ne doit être écartée. Même la plus fantaisiste. Rien de très concluant. L’enquête continue.

Il pleut des cordes sur Da Nang, mais la ville donne malgré ce temps maussade l’image d’une cité renaissante après des années de marasme et de misère : partout, ce ne sont que grues et chantiers, routes en construction, infrastructures en rénovation, maisons, immeubles et édifices publics repeints. Le phœnix Da Nang semble renaître de ses cendres. Au volant de son cyclomoteur de marque japonaise, Dung porte une cape imperméable qui le recouvre de la tête au pied, laissant juste apparaître le triangle de son visage. C’est ainsi qu’il affronte la tourmente. Pour atteindre la pagode Tam Thai accrochée au flanc de la Montagne de Marbre, il faut monter des escaliers en granit creusés dans le roc, et marcher sous le déluge. Enveloppé dans sa robe safran, le crâne rasé, la peau lisse des ascètes, un bonze attend. Il a le regard intemporel et sans âge des êtres détachés des aléas terrestres. Et pourtant, il se souvient bien de la guerre et de ces journées de chaos. Il était là quand Da Nang est tombée, en mars 1975. Il raconte avoir vu un hélicoptère s’écraser le 29 mars contre les parois de la montagne, après qu’un des passagers se soit jeté dans le vide. Huit cadavres furent retrouvés, et par ses soins ils furent enterrés dignement dans l’enceinte de la pagode. Certains portaient de l’or et de l’argent sur eux. Dung demande au bonze s’il se souvient de Nguyen Van Hau. Parmi les urnes et les stèles de la pagode, aucune ne porte ce nom. Le bonze est confus. Mais on le sent : il compatit. La compassion n’est-elle pas dans le bouddhisme un équivalent spirituel de l’amour du prochain chez les chrétiens ? Dehors, la pluie a cessé. Tout est encore sombre. Les parois de la grotte suintent d’humidité. Par une ouverture creusée dans la roche, la mer gris clair se dessine au loin comme une tache, au-dessus de la ligne verte des arbres. Dans la pénombre de la pagode nichée sous la cavité rocheuse, Dung examine les urnes, silencieusement. Une d’elles porte un nom qu’il connaît : Nguyen Van Thanh. C’était un voisin. Son père l’a bien connu. Il habitait dans la même rue que Nguyen Van Hau, à Da Nang. Quelle coïncidence ! Un voisin connu, mort au cours d’une chute d’hélicoptère, le même jour soit le 29 mars 1975 : autant d’éléments si proches des circonstances de la disparition de son père et qui semblent donner un peu de sens à cette quête sans fin. Mais ce n’est pas encore la bonne piste. L’essentiel est encore à découvrir, car Dung n’a toujours pas trouvé la clef du mystère qui le conduira au terme de sa recherche.

La nuit tombe. L’heure de rentrer. Nous retraversons Da Nang sur notre cyclomoteur. Dans un des bars de la ville, Dung recense les pistes de son enquête, compte les bonnes et les mauvaises informations, énumère les possibilités qui lui restent. Il ne veut pas céder à la déception, mais il considère le bon côté des choses : il a retrouvé sa ville de jeunesse et renoué avec quelques très bons amis qu’il n’avait pas vus depuis trente ans. Ils étaient si familiers, si proches, qu’ils ont repris la conversation comme s’ils s’étaient vus la semaine dernière. Des retrouvailles chaleureuses et poignantes. Tous se mettent maintenant en quatre pour aider leur ami dans ses recherches. C’est aussi cela la solidarité vietnamienne, une fraternité humaine au-delà des conflits du passé, au-delà du temps, et par-delà les frontières. Le temps désormais semble aboli face à l’essentiel. Cet essentiel qui reste invisible et qui se cache quelque part. Où ? Dans l’immensité de la mer ou dans la profondeur des montagnes et des jungles ?

Olivier Page
Mise en ligne le 29 avril 2004

Catégories
Prose

Họa sĩ – Thi nhân Thái Tuấn


Đặng Tiến .


Nhà thơ Nguyễn Khuyến (1835-1909) để lại bài thơ Di Chúc nổi tiếng, bắt đầu bằng câu : Thiếu hai tuổi xuân đầy chín chục, nguyên tác chữ Hán : Ngã niên trị bát bát, không ai hiểu con số 88 này ở đâu ra. Nhưng áp dụng được vào trường hợp họa sĩ Thái Tuấn, một khuôn mặt tiêu biểu cho nền văn học nghệ thuật Miền Nam trước 1975. Vào ngày sinh nhật 88 tuổi (ta) anh phải vào viện cứu cấp tại Orléans, nơi anh sinh sống với con cái từ 1984, ngày sang Pháp theo diện đoàn tụ gia đình. Ngoài lớp bạn bè cùng lứa tuổi với anh, hiện nay còn lác đác với lá mùa thu, giới văn học nghệ thuật Việt Nam đã quan tâm đến cảnh ngô. của anh. Hiện nay anh đã xuất viện, tuy nhiên sức khỏe còn suy yếu. Thái Tuấn tên thật là Nguyễn Xuân Công, sinh ngày 11-9-1918 tại phố Hàng Bông Thợ Nhuộm, Hà Nội – trong một gia đình công chức khá giả – đồng tuế và đồng môn với họa sĩ Nguyễn Tư Nghiêm. Anh có vào học trường Mỹ Nghệ Gia Định, và theo lớp dự bị tại trường Cao Đẳng Mỹ Thuật Hà Nội, cùng khóa với Phan Tại, Đặng thế Phong, khoảng 1938-1940, rồi bỏ dở.

Chân dung tự hoạ

Thời chiến tranh chống Pháp, Thái Tuấn về sống ở quê ngoại Thanh Hóa, vẽ tranh cổ động, quảng cáo và quan hệ với nhiều nhà văn kháng chiến như Thanh Châu, Quang Dũng, Hồ Dzếnh, Nguyễn Tuân. Sau hiệp định Genève 1954, anh di cư thẳng từ Thanh Hóa vào Sài Gòn, sống vào nghề vẽ quảng cáo và trang trí. Mãi đến khoảng 1956-1957 anh mới thật sự vẽ tranh sơn dầu nghệ thuật và dùng bút danh Thái Tuấn. Cùng với các họa sĩ di cư khác : Ngọc Dũng, Duy Thanh, Tạ Tỵ, Thái Tuấn đã góp phần xây dựng nền hội họa hiện đại tại Sài Gòn, được xem như có tham vọng làm thủ đô một nền văn hóa mới. Bốn họa sĩ nói trên đều là nhà văn, nhà thơ ; riêng Thái Tuấn thường viết lý luận về hội họa và mỹ thuật trên các báo Sáng Tạo, Bách Khoa, và Văn, thịnh hành lúc đó ; bài viết của anh ít tính cách kỹ thuật và chuyên môn, nên nhẹ nhàng, cởi mở và phổ quát, giúp nhiều độc giả làm quen với hội họa, là một ngành nghệ thuật mới đối với đại chúng. Những bài viết kết hợp với tác phẩm hội họa đẹp và dễ hiểu , tạo cho Thái Tuấn một uy tín : anh tham gia hội đồng giám khảo ở nhiều giải thưởng và phòng tranh. Những cuộc triển lãm cá nhân 1958, 1970, 1973 được dư luận đánh giá cao – về nghệ thuật và thương mãi.

Áo trắng – Thái Tuấn 2003

Thái Tuấn đến với sơn dầu ở tuổi bốn mươi, nên tranh anh ít sắc cạnh, khai phá, mà giàu chất hoài niệm và tính văn học, tạo không gian thoáng rộng, u hoài , thi vị. Đề tài, ưu tiên là phụ nữ trong nhan sắc, dáng dấp, cử chỉ, y phục thuần túy Việt Nam trên nền màu sắc dịu nhẹ, dung dị mà tế nhị.



Nhan sắc ở đây chủ yếu không phải chỉ là nữ sắc mà là một thoáng đẹp giữa trần gian. Thái Tuấn vẽ nét đẹp của phụ nữ hơn là phụ nữ đẹp, người đàn bà hóa thân làm vẻ đẹp trong tranh, diễm ảo mà hư ảo, một thoáng hồng nhan, như một lời thơ. Họa sĩ Đinh Cường, tâm giao và thâm giao với anh từ non nửa thế kỷ, đã có lần nhận xét Thái Tuấn biến bức tranh thành một cấu trúc tiềm ẩn (1). Anh chỉ vẽ tiếng hát chứ không vẽ người mẫu, mà vẫn nhìn ra (ca sĩ) ; anh thường tâm sự : vẽ người mà không vẽ người. Vẽ như không vẽ mới đã…
(1) Đinh Cường, Thái Tuấn Cội Nguồn, báo Ngày Nay (Mỹ) số 354, ngày 01/11/1996.

Tes yeux  

Vẽ phụ nữ, Thái Tuấn quan tâm đến mái tóc, đôi khi mái tóc vận hành cấu trúc bức tranh, như bức Cội Nguồn, 1970 ; nhưng mái tóc trong tranh còn là một trời thu tạnh mơ say hương nồng. Anh có bức chân dung thiếu nữ, 1964, đặt tên bằng tiếng Pháp « Tes Yeux » (Mắt Em) , nhắc câu thơ mắt em là một dòng sông ; 1974 bức Bông Hồng Bạch, là hồn của bông hường trong hơi phiêu bạt, như một lẵng hoa vắng cả bông hoa / un bouquet absent de fleurs, theo một ý của Mallarmé. Đến với hội họa ở tuổi bốn mươi, trải qua nhiều kinh nghiệm văn chương, Thái Tuấn để lại nhiều họa phẩm phảng phất chất văn học – có khi là một bài hát, một dòng sông cũ vẫn xuôi niềm thương.

Tiếng Pháp gọi họa sĩ là artiste-peintre ; ở Thái Tuấn, chất artiste nhiều hơn chất peintre, anh là nghệ sĩ hơn là họa nhân, anh là thi sĩ vẽ tranh, gọi anh là họa sĩ-thi nhân, như một Vương Duy thời Đường, có lẽ đúng. Trong mỗi họa sĩ, có một nghệ sĩ và một nghệ nhân : nghệ nhân lấy bức tranh làm đối tượng, nghệ sĩ lấy Cái Đẹp làm cứu cánh. Mà chữ Đẹp viết hoa là cõi Vô Cùng. Từ đó mỗi bức tranh Thái Tuấn dù đã hoàn tất và toàn bích, vẫn còn, vẫn là nỗi chờ mong – thiếu vắng. Đó là cách đọc những khoảng mông mênh trong tranh Thái Tuấn, những trời thu xanh ngắt, quạnh vắng chiều sông, nắng chia nửa bãi, để mộng tàn lây, nhớ nhà châm điếu thuốc… một không gian tư lự, u hoài và mơ ước trong mùa xuân chưa đi, mùa thu chưa đến. Đời Thái Tuấn là một bức tranh duy nhất và dở dang. Vẽ hoài mãi vẫn chưa xong một vạt trăng tơ, một tà nắng lụa.

Chợ chiều

Giới phê bình thường nhận xét : tranh hiện đại, tây phương của Thái Tuấn vẫn giàu chất Á Đông và dân tộc. Thật ra anh không mấy chủ tâm vào truyền thống, trường phái hay dân tộc tính, thậm chí trong thời kỳ sáng tác dồi dào nhất, những năm 1960-1970, anh còn hờ hững với dân tộc, định hình trong biên giới và lịch sử. Sau này, 1984, ra nước ngoài, ở tuổi xế chiều, anh mới hoài vọng về cảnh nông thôn và nông dân Bắc Bộ hồi đầu thế kỷ trước. Và đề tài quê hương mới rõ nét như một ám ảnh.

Ngày nay nhiều người đòi hỏi bản sắc dân tộc trong nghệ thuật , với những luận điệu có khi thô sơ. Để lý luận được khách quan, ta thử đối chiếu với một đề tài tương tợ : nghệ thuật và tôn giáo. Nhà văn công giáo thuần thành Jacques Maritain trong sách Nghệ Thuật và Kinh Viện đã nhắc nhở các nghệ sĩ, đại khái : nếu anh dùng nghệ thuật để phụng vụ đức tin, hay dùng tín ngưỡng để phục vụ nghệ thuật, thì hoặc là anh làm hỏng tranh, hoặc là anh làm rối đạo. Chuyển lý luận ấy sang chuyện dân tộc, cũng vậy thôi. Maritain càng nói rõ : trên lý thuyết nghệ thuật là siêu thời gian và siêu không gian, supra tempus, supra locum.(2) Nhưng trong thực tế, nghệ thuật do đề tài và cội rễ, thuộc một thời đại và một xứ sở. Những tác phẩm toàn cầu nhất, nhân đạo nhất đều mang rõ rệt dấu ấn của tổ quốc.

(2)Jacques Maritain, Art et Scholastique, ba’o Les Lettres, tha’ng 9-10,1919, in lại 1935, trang 115 va 130, nxb Louis Rougart, Paris.

Về Thái Tuấn, Đinh Cường còn lưu ý : anh là người ngoan đạo nhưng không thấy anh đi nhà thờ. Màu sắc dân tộc e cũng cùng một cội nguồn, là những tình cảm đã nhập vào anh, ẩn sâu trong tiềm thức. Khi vẽ tự động ra .

Cởi trâu

Do đó mà Thái Tuấn vẽ cái gì rồi nó cũng ra dân tộc ; vì suốt đời anh chỉ vẽ thuần một giấc mơ. Con người làm chủ, kiểm soát, điều khiển được tư tưởng, thậm chí tình cảm, nhưng không ai làm chủ được giấc mơ. Giấc mơ là cái gì không thể chia chác, và cũng không thể tái lập. Nhưng dường như các nghệ sĩ có khả năng sống lại, và làm sống lại trong một bức tranh.

Nếu ai cho tôi một từ, chỉ một từ thôi trong tiếng Việt để mô tả tranh Thái Tuấn, tôi sẽ xin chữ « thơ mộng », thơ của tuổi thơ và mộng làm bươm bướm. Nếu là tiếng hán việt, tôi sẽ dùng chữ « hoài vọng » ; hoài những bến xuân xưa và vọng về Miền Đẹp bồng đảo xa khơi.

Tranh Thái Tuấn là miền, là niềm an tịnh vô biên. Mỗi bức tranh là một tâm cảnh dạt dào tâm cảm, một thời khắc im lặng dặt dìu âm hưởng. Nói về niềm im lặng, mà nhiều lời đâm ra ngớ ngẩn. Một bức tranh là buổi chiều trong thơ Xuân Diệu : nó xế hồn ta bằng nắng nhạt, bằng mây nhè nhẹ gió hiu hiu… .


Đặng Tiến
Orléans, 20/10/2005

Thái Tuấn & Đặng Tiến (2005)


Thư tịch :
-   Thái Tuấn, Câu Chuyện Hội Họa, nxb Cảo Thơm, 1967, Sài Gòn.
-   Thái Tuấn, Tuyển Tập Tranh và tiểu luận, nxb Vaala, 1996, California. (Có phụ lục phần phê bình, giới thiệu của nhiều tác giả khác).
-   Thái Tuấn, Nguồn Mỹ Cảm, tạp chí Văn, số 93, 1967, Sài Gòn.
-   Thái Tuấn, trả lời phỏng vấn Huỳnh Hữu Ủy, tạp chí Văn, số 199, 1972, Sài Gòn.
-   Huỳnh Hữu Ủy, Bóng dáng Thái Tuấn giữa nền nghệ thuật hiện đại, tạp chí Thế Kỷ 21, số Xuân Bính Tý, 1996, California.
-   Phan thị Đỗ Quyên : Xem tuyển tập tranh và tiểu luận Thái Tuấn, tạp chí Thế Kỷ 21, số 91, tháng 11/1996, California.
Catégories
Prose

Le Coq Lunaire

La nouvelle année luni-solaire débarquera dans le calendrier occidental le 9 Février 2005, sous le signe zodiacal du Coq, Yi You en Chinois, Ât Dâu en Vietnamien (en abrégé V) : signe riche en symbolique, présage équivoque : les Vietnamiens se souviennent que l’année Ât Dâu 1885, ils ont perdu face aux Français l’indépendance nationale, qu’ils ont recouvrée en fin de cycle, l’année Ât Dâu 1945, où malheureusement, une famine sans précédent fit deux millions de victimes…

Lune et Soleil : Le Mois et L’Année

Le vocable luni-solaire appelle une explication rapide : le calendrier chinois combine le cycle de la lune et celui du soleil, et ce depuis la plus haute antiquité. Certains le font remonter jusqu’au XXVè siècle avant J.C. ; d’autres, plus réalistes, le situent vers les VIIIè ou VIIè AC. Luni-solaire, il combine la période de 12 lunaisons mensuelles (354 jours) avec le cycle solaire de 365,25 jours, l’écart étant comblé, de temps en temps, par une lunaison (mois) supplémentaire. En bref, le mois a 29 ou 30 jours suivant le cycle lunaire, l’année a 12 mois et une fois sur trois, un 13ème mois appelé run, V : Nhuân. L’année solaire est décomposé en 24 intervalles Qi, V : Khi, les impairs sont appelés Nodaux (Jie, V : Tiêt), les pairs Centraux (Zhong, V : Trung) ; les instants de solstice et d’équinoxe appartiennent aux centraux, les débuts de saison sont nodaux. Le début du Printemps correspond à un Jie, V : Tiêt, d’où le mot Têt, le Nouvel An en vietnamien. Le mois run est une mensualité sans zhong .

Le Jour de l’An correspond à de la Fête de la Première Lumière, Têt Nguyên Dan, quelques jours avant ou après le début du Printemps (Tiêt Lâp Xuân : Jie Li Chun). Par rapport au calendrier occidental, il se déplace entre le 21 Janvier et le 20 Février ; pour le repérer, il suffit de trouver la nouvelle lune, marquée par un rond noir sur le calendrier julien.

De nos jours, les gouvernements de l’Asie Orientale ont tous opté le calendrier occidental, plus pratique. Mais les gens, au Vietnam par exemple, gardent encore leur calendrier du yin (âm lich) pour les fêtes traditionnelles, le culte des ancêtres, le choix du jour faste pour les grandes occasions, il permet aussi de suivre le cycle de la lune dont on reconnaît l’influence sur la vie humaine et végétale.

Du Coq au Singe

Cependant, l’information astronomique attire moins que l’intérêt astrologique, même chez certains intellectuels ou responsables politiques, économiques. Les Chinois décomposent le temps en cycles formés de 12 rameaux terrestres (Zhi, V : Chi) que la tradition populaire associe aux douze animaux familiers, empruntés à leur environnement domestique, naturel ou symbolique, dans l’ordre : rat, buffle( ou bœuf), tigre, chat (ou lapin), dragon, serpent, cheval, chèvre, singe, coq, chien, cochon. Les douze Zhi sont qualifiés par un cycle de 10 troncs célestes (Gàn, V : Can). Les deux cycles étant des nombres pairs, chaque « animal » tombe et retombe sur un tronc toujours impair, ou pair, ce qui donne des cycles de : 12 x 10 : 2 = 60 ans , l’espace d’une vie humaine.

Reprenons l’exemple du début : 1945 année de l’indépendance du Vietnam est datée Ât Dâu. Cette année 2005, 60 ans après, est de nouveau Ât Dâu, renouvelant le cycle. Le doublet Gan Zhi qui désigne l’année, s’applique aussi aux mois, aux jours, décomposés en douze heures, désignées par les mêmes doublets et sans aucune confusion : le jour commence à minuit, toujours Rat, il culmine à midi, toujours Cheval. Rat, Cheval, comme « l’année du Coq » relèvent du langage populaire, ils n’ont pas de rapport linguistique, astrologique ou symbolique. Les douze animaux constituent un bestiaire familier, pour aider la mémoire et sans doute pour domestiquer les cycles de l’univers, par l’imaginaire collectif. Aucun signe zodiacal, à priori n’est plus faste qu’un autre : en 1789, année du Coq, Nguyên Huê, par une victoire éclatante a repoussé une invasion chinoise, instaurant la dynastie Tây Son, renversée en 1801, aussi une année du Coq. Les natifs du Coq ne sont pas forcément ponctuels ou matinaux, les natifs du Tigre ne sont pas plus féroces que les ceux du Buffle, qui ne sont pas plus travailleurs… Mais l’irrationnel fascine par sa poésie – la réciproque est aussi vraie…

*

La Mystique du Pouvoir

Dans la Chine ancienne, le calendrier est un instrument du pouvoir politique. Marcel Granet, spécialiste éminent en ce domaine, a brossé ainsi le portrait de l’empereur chinois : « Maître unique du Calendrier, et à ce titre, animateur de toute la Terre chinoise, tel apparaît, dans la tradition des Han, le Fils du Ciel (…). Il étend à l’Empire entier sa Vertu régulatrice, parce que, dans la Maison du Calendrier, il régente, au nom du Ciel le Cours du Temps ». Bien avant les Han, depuis la plus lointaine antiquité « le Souverain régente l’Espace parce qu’il est le maître du Temps » .

Le mystère du cosmos sert la mystique du pouvoir. L’empereur qui détient les lois célestes tient les droits terrestres. Il promulgue le calendrier – et le jour de l’An – établis par un Bureau d’Astronomie où des savants effectuaient des recherches pointues dont les résultats étaient tenus secrets. Les connaissances en astrologie comme en géomancie ou stratégie militaire n’étaient pas publiées.

Cependant, parallèlement à ce formalisme rituel et impérial, le paysan chinois n’attendait pas le calendrier officiel pour labourer sa terre, il disposait de son propre calendrier, très ancien, fait de dictons qui sont à l’origine de la poésie chinoise traditionnelle.

Le Vietnam, royaume vassal, du moins en théorie, recevait ainsi, périodiquement, le calendrier céleste. Il avait déjà son calendrier lunaire avant l’ère chrétienne, puis après une longue colonisation chinoise de dix siècles, a dû adopter le calendrier chinois, à vrai dire plus complet, et qui se remédiait d’un siècle à l’autre, se perfectionna surtout au XVII è siècle grâce à la contribution des missionnaires Jésuites.

Entre les deux calendriers, on relève des écarts ; certains sont involontaires, dus aux changements techniques en Chine que le Vietnam n’a pas mis à jour, certains sont volontaires pour marquer l’indépendance nationale. Mais les écarts sont minimes.

*

Le Temps des Amours

 Do Minh Tuan (huile) - 28.1 koDo Minh Tuan (huile)

Le Nouvel An du calendrier luni-solaire est marqué par des fêtes printanières sous deux aspects : d’une part rituel, religieux, d’autre part populaire, spontané. Marcel Granet, en épluchant les chansons populaires archaïques compilées dans le Che King, Livre de Poésie, par Confucius (551-479 AC) a reconstitué ces deux aspects en Chine antique. Il situe d’abord la date : « C’est au premier mois de printemps, que le vent d’Est amène le dégel : cependant une autre tradition place la fête au moment où le pêcher fleurit et où tombent les premières pluies (…), il est clair que la fête, d’abord liée aux premières manifestations de l’éveil printanier, fut ensuite assignée à un terme fixe, à un jour déterminé du calendrier ».

Ensuite la manifestation populaire :

« Les jeunes gens et jeunes filles se réunissaient en grand nombre au confluent des rivières Tchen et Wei ; ils y venaient en bandes cueillir des orchidées, se provoquaient en chants alternés, puis jupes troussées, passaient la Wei et quand les couples s’étaient unis, les nouveaux amants en se séparant se donnaient une fleur comme gage d’amour et signe d’accordailles » .

Cette fête antique, jeune, gaie, bruyante comporte des rites sexuels qui formulent des vœux de fécondité, humaine et agricole. Elle existe encore, au début du XXè , chez les Lolo, une ethnie du Nord Vietnam, d’après une enquête de Bonifacy :

« Les jeunes gens non mariés sont très libres. Ils chantent ensemble bien qu’appartenant au même village. Le premier mois tout entier est spécialement consacré aux amours. Les jeunes gens sont laissés entièrement libres ; c’est la fête de con-ci, qui varie selon les tribus » .

Dans le delta du Fleuve Rouge, on retrouve des vestiges, des souvenirs de telles fêtes anciennes vouées à la fécondité.

Dans le Che King, Granet relève encore trois autres fêtes printanières, dont une rituelle, royale, conduite par le Fils du Ciel, en lieu et date précis, au Sud de la Capitale, le jour de l’équinoxe du printemps, le jour officiel du retour des hirondelles (op.cit., 1919,p. 164).

Nous avons vu ainsi les diverses formes et formalités à l’origine du Têt ou Nouvel An que nous fêtons aujourd’hui.

*

Le Têt au Vietnam – au XIIIè siècle

Le texte historique vietnamien le plus ancien remonte au début du XIVè siècle, œuvre de Le Tac, un vietnamien réfugié en Chine. Lors de l’invasion mongole, en 1284, suivant son maître Tran Kien, il se rallia aux Chinois et s’exila en Chine après leur défaite. Il rédigea, entre 1285 et 1307, son Histoire Abrégée de l’An-Nam, An Nam Chi Luoc, publiée en Chine, vers 1340, peu connue au Vietnam, parce que l’auteur est un traître à la nation.

« Tous les ans, deux jours avant la fête du Têt, le roi dans son char, précédé de ses mandarins en tenue d’apparat, se rend au Temple De Thich ; le dernier jour de l’an, il siège à la porte Doan Cung, reçoit les hommages de ses hommes, assiste aux représentation de chants et de danses, en cent divertissements. Le soir, le souverain rend hommage à ses ancêtres, les bonzes pénètrent dans la cité pour exorciser les démons. Les gens du peuple ouvrent leur porte, font éclater les pétards, présentent des offrandes aux ancêtres. Garçons et filles de famille modeste qui ne pouvaient se payer un entremetteur, s’unissent de leur propre volonté. Le jour de l’an, de grand matin, le souverain s’installe au temple de la Longévité reçoit les vœux des princes et proches collaborateurs, se rend ensuite au palais de l’Eternel Printemps pour saluer les tombes de ses antérieurs » .

Dans le même chapitre, Lê Tac nous a livré des documents ethnographiques d’un grand intérêt.

*

L’Harmonie Universelle

La fête antique après des voyages multi millénaires nous est parvenue, fraîche, juvénile, joyeuse, ayant délaissé quelque part sa robe de cérémonie surannée. Nous célébrons toujours aujourd’hui le culte des ancêtres, mais de façon simplifiée, autour d’un autel illuminé, encensé et fleuri, honoré d’un grand plateau de fruits symboliques, riches en formes et couleurs. Les offrandes sont aussi réduites : un « gâteau du Têt » – « Banh Chung » – qui n’est pas une pâtisserie, comme l’appellation française induit en erreur, mais une tablette de riz gluant laissée mijoter à long feu, dont l’origine remonte à l’antiquité, aux temps lointains des Rois Hung d’après la légende..

Les Vietnamiens ont toujours fêté leur Têt même pendant les années de guerre. Au fin fond des campagnes ravagées, une lueur de bougie, un brin d’encens, suffisaient à exprimer une commémoration meurtrie, une espérance endeuillée. La paix revenue, l’amélioration économique aidant, ils amplifient les dimensions de leur Têt, modernisent les manifestations, au risque de tomber dans l’idolâtrie, l’étalage, le gaspillage.

Pour la diaspora asiatique, chaque Nouvel An est un retour, au pays, à l’origine, à la tradition, et peut être à soi-même, quelque part à mi-chemin entre Lune et Soleil, mémoire et espérance.

Chaque Nouvel An réaffirme la foi en un Renouveau : le bonheur personnel et familial, dans la paix sociale et l’harmonie universelle – comme le concevaient déjà nos Grands Ancêtres de l’Antiquité.

Dang Tien
Année du Coq Ât Dâu
Orléans, 21/01/2005

Catégories
Prose

La branche de fleurs du pays natal

Les cours de vietnamien dispensés par Madame Nguyễn Tôn Nữ Hoàng Mai au Lycée Louis le Grand dans les décennies 80, 90 ont permis à de nombreux vietnamiens de réussir au Baccalauréat en prenant le vietnamien comme 1ère ou 2è langue. Non seulement ces jeunes apprennent la langue vietnamienne, mais encore ils commencent à connaître leur pays natal qu’ils ont quitté très jeunes.

Lors d’une soirée théâtrale organisée au lycée Louis le Grand en 1991, une élève du cours de vietnamien s’est adressée à ses cadets à travers un sketch accompagné d’une musique mélodieuse et d’une voix off. En voici le contenu du sketch).

Cher petit frère, chère petite sœur, (1),

Te souviens-tu le premier jour où tu étais allé t’inscrire au cours de vietnamien ? Ce jour là, tu étais encore très timide, égaré. Et lorsque la professeur te demanda : « Pourquoi voulez-vous apprendre le vietnamien ? Tu ne sus que lui répondre : « Pour passer le baccalauréat », puis…, tu balbutias de peur d’offenser la professeur : « Pour mieux connaître le Viet- Nam ».

Mais peut-être dans cette première rencontre insolite, tu avais le sentiment de toucher quelque chose d’ intime et de familial.

Etait-ce parce qu’il s’agissait d’une petite classe, pleine d’élèves vietnamiens avec une professeur vietnamienne – la professeur de vietnamien dans tous les sens du terme : te parler en vietnamien et te faire connaître le Viet- Nam.

Et puis, les jours passaient … tu suivais régulièrement les cours de vietnamien chaque semaine, tu prenais consciencieusement notes des enseignements de la professeur. Tu te liais connaissance avec tes camarades de classe et ensemble vous étudiiez, vous vous êtiez bien amusés, vous vous partagiez des confidences et chose curieuse, les confidences que tu n’avais jamais partagé avec quelqu’un d’autre.

A ce moment, tu te rendais soudain compte qu’auparavant tu avais vécu sans but comme quelqu’un marchant dans un brouillard dense, n’ayant aucun repère, aucun but, et pas… de pays natal. En fréquentant les cours de vietnamien, il semblait que tu te réveillais après un long cauchemar, comme quelqu’un qui découvrait soudain dans son jardin une plante fleurie, bien que petite et simple, mais tellement précieuse : les Fleurs du Pays Natal.

Et tu commençais à t’occuper de cette plante, à la soigner.

Celui qui vit dans son pays natal reçoit l’amour du pays natal nourri par toute la terre et l’eau, le ciel et les nuages, par tout un peuple, il vit avec ce peuple et se sent proche de lui chaque jour.

Ici, dans cette contrée éloignée, tu ne pouvais retrouver ton pays natal qu’à travers un petit nombre de gens ayant le sang de ton pays natal.

C’était la raison qui t’avait poussé à participer aux activités de la classe et grâce auxquelles tu découvrais et développais un certain nombre de tes compétences. Puis, confiant, tu acceptais certaines responsabilités, tu avais des confrontations, des fois tu te mettais en colère (évidemment), mais tu apprenais quand même à accepter les autres, à te réconcilier avec eux, les pardonner afin de continuer ensemble un bout de chemin.

Cher petit frère, chère petite soeur , les cours de vietnamien s’achèvent dans deux mois. T’en souviens-tu ? Tout d’abord, tu fréquentais les cours de vietnamien pour préparer le Bac et connaître un peu le Viet- Nam. Tu constateras que le jour où tu quitteras les cours de vietnamien, ton bagage sera beaucoup plus lourd. Tu quitteras les cours en emportant avec toi l’amour des maîtres, l’amour de la classe et, mieux encore, un amour encore en bourgeons : l’amour du pays natal.

Tes aînés qui ont suivi les cours de vietnamien avec la professeur en quittant l’école, comme toi, ont emporté chacun une branche de fleurs du pays natal encore en bourgeons.

Certains chanceux se trouvaient dans un environnement favorable, les fleurs du pays natal s’étaient épanouies, fraîches ; certains avaient greffé les fleurs du pays natal avec d’autres fleurs engendrant d’autres nouvelles espèces avec de nombreuses autres couleurs.

D’autres, habiles, s’étaient bien occupés de ces fleurs qui, non seulement avaient donné des fleurs plus belles, mais mieux encore avaient fait pousser de nombreux bourgeons.

Cependant chercher son pays natal à travers l’individu conduit des fois au désespoir et à beaucoup d’échecs, n’est-ce pas ? Les épines des fleurs du pays natal parfois nous piquent et nous font très mal. Certains s‘étaient mis en colère et les avaientt écrasées.

Certains, ne pouvant résister aux pressions de la famille, de la société avaient laissé les fleurs pressées, courbées, devenues ainsi difformes.

Certains d’autres, attirés par les invitations de la vie, avaient suivi certaine mode, laissant tomber à leur insu les fleurs à mi-chemin.

Cher petit frère, chère petite sœur, emporte la branche de ces fleurs chez toi, essaie de la cultiver pour qu’elle soit fraîche et forte.

Tu n’es pas obligé de cultiver tes fleurs par devoir envers la patrie, ou tes parents, tes professeurs. Il suffit que tu cultives tes fleurs pour toi-même, pour que tu sois heureux, que tu sois solide sur tes deux pieds. Si tu y parviens, tes parents, tes professeurs et tout le pays profiteront de ta réussite.

En outre, le sais-tu, dans l’avenir, il est certain que quelqu’un va te demander une branche de ces fleurs.

Bach Thai Hao

Soirée théâtrale vietnamienne au Lycée Louis- le- Grand le 18/04/1992.

(1)- En vietnamien, le mot « em » désigne ici une fille ou un garçon moins âgé.

Catégories
Prose

Tôi học trường Tây

Mấy chục năm sau khi rời mái trường trung học ở Collège Francais de Tourane, mới gần đây đọc báo điện tử ở Việt nam, tôi lại thấy nay phong trào cho con đi học “trường tây” lại bộc phát dữ dội. Qua bao nhiêu thăng trầm lịch sử, bao nhiêu ý thức hệ đổi dời, giờ đây ở Việt nam , từ giới không mấy giàu cho đến giới làm ăn ra tiền, thiên hạ có vẻ đang chen nhau thắt lưng buột bụng để con mình được vào một trong những trường có chương trình không phải là chương trình căn bản của nhà nước, học trình dạy bằng tiếng ngoại quốc (Anh, Pháp, Nhật..), rất đắt tiền (dù so vớI giá cả ở Mỹ). Một số lý do cha mẹ nêu lên là : chương trình ít từ chương và nhồi sọ hơn, trẻ được học tánh tự lập, học nhiều môn cần thiết cho đời sống mới thực tế như biết tranh luận, biết dùng computer, biết tự mình khảo cứu một vấn đề, biết nói ngoại ngữ lưu loát , được học thể dục thể thao tốt hơn, về nhà cha mẹ khỏi mướn thêm để dạy kềm.. Thì ra, lúc tóc đã bạc đầu, tính đi tính lại, thấy bố mẹ mình hồi xưa xem ra cũng …có lý ; mặc dù hồi đó đôi lúc mình thấy có nhiều điều không ổn lắm.

Tôi vào trường College Francais de Tourane lúc tôi mới mười tuổi. Nhà tôi ở Huế, phải đi “taxi” (hồi đó những xe traction cũ, hiệu Citroen, chở cả 14-15 người đi từ Huế vào Đà nẵng gọi là xe taxi). Tôi vừa học xong tiểu học trường Việt, chỉ từng thấy những người Pháp quen với ba tôi lại nhà chơi ở trên lầu, vốn liếng tiếng Pháp của tôi chỉ gồm một số ngữ vựng (vocabulaire) nhờ ba tôi và các anh chị bắt học thuộc lòng từ hồi năm sáu tuổi gì đó. Về phần đàm thoại thì có lẽ… khỏi nói, thời đó chẳng ai dạy con nít đàm thoại, và thêm nữa đọc tiếng Pháp theo giọng Huế chắc cũng hơi tội nghiệp cho người Pháp.

Ở Mỹ hiện nay, về giáo dục con nít, người ta thường coi việc đưa một đứa nhỏ ra khỏi môi trường văn hóa gốc của nó (như con nít Mỹ đen mà đem cho Mỹ trắng làm con nuôi , hoặc bắt trẻ da đỏ đi học trường đạo tin lành của Mỹ trắng) là một điều cấm kỵ, nhiều khi sau này còn bị kiện như trường hợp những người Da Đỏ ở Canada bị các bà xơ tập trung về trường ép buộc biến thành người da trắng. Sau này, lúc lên đại học, nhân đọc một bài báo của Thế Uyên gọi dân trường Tây là “les déraciniens”, tôi nhớ mình cũng hơi áy náy vì “mặc cảm tội lỗi”. Nhưng, như đã nói ở trên, mình vẫn. ..không sao, vẫn trả nợ nước như mọi người trước khi buộc phải xa xứ. Bây giờ, hình như lại rất nhiều người ở Việt nam còn muốn con cái được như mình hồi xưa (đi học trường Tây), với một cái giá cắt cổ hơn nhiều, vậy xem ra dưới mặt trời cũng không có gì là lạ, và nghĩ lại, thật biết ơn cha mẹ mình đã hy sinh rất nhiều cho con cái.

Dù sao thì hồi đó tôi cũng có khi hãnh diện là mình học trường Tây. Đầu năm học, được đi lảnh sách Pháp chở đầy một xe xích lô, sách bìa cứng, in màu, đẹp, trong lúc sách giáo khoa tiếng Việt hồi đó còn ít ỏi. Trong lúc các trẻ khác nghỉ hè, nghỉ Tết theo cuộc sống ở Việt nam thì mình nghỉ Noel và Tết tây kéo dài. Phục sinh ai cũng đi học cả thì mình được nghỉ đến hai tuần, và nghỉ hè thì cũng theo những học trò ở bên Pháp, trong lúc các bạn ở Việt nam còn đi học. Ai có ngạc nhiên tại sao mình đi chơi trong lúc trẻ khác đi học thì nghiễm nhiên trả lời “tui học trường college”. Một phần vì ở nội trú, xa cách nếp sống điển hình của gia đình Việt nam, một phần vì chương trình học gần như hoàn toàn là của Pháp, dần dần mình trở thành dân trường tây “thứ thiệt” mà không hay !

Lúc đầu, mỗi lần nói một câu xin thầy Marcon (lóp septième spéciale) là cả một đắn đo, tính toán ghê gớm cho một đứa trẻ chưa bao giờ ra khỏi nhà cha mẹ và bắt buộc “lội” trong một thứ tiếng hoàn toàn mới lạ. Trong lúc đó thì những bạn cùng lớp như Vĩnh Từ, Thu Thu, Cẩm Vân và Thu Thủy theo học trường tây từ thời jardin d’enfants lại đứng lên đọc các théorème như gió, buồn cho phận mình không bao giờ mới nói tiếng Tây cho lưu lóat được. Ngược lạI, lúc cần diễn tả một đề tài nào đó bằng tiếng Việt thì lại phải chêm tiếng Pháp rất nhiều, như làm composition, học sciences… không khác gì trẻ con chúng tôi ở Mỹ hiện nay pha trộn tiếng Anh vào tiếng Việt rất nhiều.

Mà cũng khó thật, nhất là bây giờ chứng kiến cách các trẻ em Việt nam tại Mỹ hội nhập một cách nhanh chóng vào xã hội Mỹ. Chúng dùng tiếng Anh trong lớp đã đành, mọi sịnh hoạt khác đều là trong một xã hội Anh ngữ, từ đi chợ, vào tiệm ăn, đọc tờ báo, lại thêm các phương tiện truyền thông thính thị (audio,video) tạo thành một sự “đắm mình” (immersion) thật sự trong Anh ngữ cho nên chúng “bắt” được tiếng Anh thật nhanh. Chúng tôi hồi đó thì khác hẳn, trường tây thì chỉ tây ở lớp thôi, vì ở nộI trú nên chúng tôi mất hẳn sự hổ trợ của một nếp sống gia đình Việt nam bình thường, thiếu tác động về ngôn ngữ, tinh thần và tâm linh của một cuộc sống của một đứa trẻ trong một gia đình bình thường. Nói một cách khác, thật sự chúng tôi một phần nào trở thành những kẻ xa lạ trên chính quê hương mình, bị tha hóa về văn hóa. Như trường hợp Lý Quang Diệu, cựu thủ tướng Singapore nhận xét về chính bản thân ông, xuất thân từ trường của người Anh và xa lạ với văn hóa người Tàu.

Thât sự thì vấn đề “tha hóa” cũng chỉ tạm thời thôi, vì sau đó, dù muốn dù không, giống như tất cả thanh niên thời đó chúng tôi sẽ phải dấn thân vào thời cuộc xã hội Việt nam đang đợi ngoài cổng trường Tây của mình. Đến lúc đó những hành trang mang theo từ trường Tây lại trở nên vô cùng quí giá trong cuộc sống .

Chương trình trường Tây là một cánh cửa mở rộng vào thế giới hồi đó. Ngay lúc còn ở Việt nam, dù xấu dù tốt, hay hay dở, chúng ta vẫn có một cách nhìn đời hơi “Tây”. Sách vở bằng tiếng Việt vào những năm 1960 vẫn còn ít ỏi, trong lãnh vực khoa học cũng như văn học. Một số bài về văn học mà tôi tìm đọc hồi đó cũng có vẻ như viết theo văn phạm, cú pháp (syntax) Pháp và còn giống văn dịch từ tiếng Pháp. Ngay những lúc mà các nhân vật lãnh đạo như Tổng Thống Ngô Đình Diệm và Thủ Tướng Nguyễn Cao Kỳ cố gắng ngoài mặt xoá bỏ những dấu vết của cái gọi là văn hóa thực dân, chính bản thân họ cũng hãnh diện ra mặt là mình nói tiếng Pháp và được đào tạo trong lòng văn hóa Pháp.

Lúc tôi tốt nghiệp trung học, trường đại học khoa học đã dùng tiếng Việt làm chuyển ngữ , tuy nhiên kỳ thi vào y khoa vẫn cho phép viết bằng tiếng Pháp. Từ năm y khoa đầu tiên trở đi, các bài giảng đều bằng tiếng Pháp, cho đến mấy năm sau thì các cuộc tranh đấu của sinh viên mới đổi chuyển ngữ thành tiếng Việt ; tuy nhiên sách vở vẫn bằng tiếng Pháp, các hồ sơ bịnh lý trong nhà thương vẫn còn viết bằng tiếng Pháp cho đến lúc tôi ra trường. Nhớ lại ngày xưa, thật là một chế độ rất bất công cho những bạn học từ trường Việt nam, và thật là một sự ưu đãi lớn cho những người học trường Tây. Hơn thế nữa, sau khi phải bỏ xứ ra nước ngoài, trong thế giới càng ngày càng thu nhỏ lại, càng “toàn cầu hóa” trong những năm gần đây, cái nhìn theo “Tây” đó tỏ ra rất hữu ích cho cuộc sống hiện nay. Ngoài ra, sự hiểu biết sẳn có về tiếng Pháp giúp ích thật nhiều cho người di dân cần học tiếng Anh. Nhìn lại tôi càng thấy biết ơn những vị thầy của chúng ta đã từ xa nghìn dặm, đem đến cho thành phố Đà nẳng nhỏ bé của chúng ta những kiến thức khoa học mới mẻ, những nét đẹp của văn chương tây phương, những tư tưởng phóng khóang của khoảng giữa thế kỷ thứ hai mươi.

Bốn mươi năm sau, tình hình thay đổi hẳn. Tôi đang sống trong xã hộI Mỹ và tiếng Anh trở thành gần như một phản xạ (tuy lắm khi phản xạ chậm hoặc sai). Còn tiếng Pháp thì sao ? Mấy năm trước đây, tôi xúc động được đặt chân đến Paris lần đầu tiên trong đời. Con tôi vẫn biết tôi học “trường Tây” nên tôi phải cố gắng đánh bạo lòe chúng, nói vài câu tiếng Pháp với người lái taxi. Anh ta tưởng tôi là người Nhật và hỏi tôi học tiếng Pháp ở đâu. Tôi cũng mừng vì ngườI tài xế là “Tây thứ thiệt’ còn hiểu được mình nói gì. Nhưng tiếng Pháp của tôi chỉ còn chừng đó thôi, tôi cố gắng nói thêm vài lần nữa với vài người Pháp ở phi trường, nhưng họ cũng nhân đạo, trả lời tôi bằng tiếng Anh !

Nghĩ cho cùng, học trường Tây đâu phải chỉ để nói tiếng Tây, mà cũng không phải để trở thành Tây (nay tôi là “người Mỹ gốc Việt”, người Pháp tưởng tôi là Nhật. Học trường Tây là có dịp đi vào thế giới của suy nghĩ và tâm tình Pháp, của văn minh và nghệ thuật Pháp, và từ đó tìm hiểu và thưởng ngoạn những tiến bộ, những thành quả của văn minh thế giới. Đến tuổi này và nơi này, tôi vẫn là ngườI Việt nam, nhưng ngôi trường Tây (tuy trường hợp của tôi, chỉ vào trường Tây nửa mùa), tiếng Tây vẫn là những mối “ tình đầu” không bao giờ phai.

Hồ Văn Hiền (BP65)
Great Falls, ngày 27 tháng 2 năm 2005.

-  . Xin mờì các bạn lên mạng đọc các bài viết khác cùng những câu giải đáp về y khoa của anh Hồ văn Hiền – http://www.bshien.org

.

Catégories
Prose

Unlimited Prosperity

1-

“What a masterpiece !” Cried out a voice.

Startled, Nam turned around. In front of him was a young woman with a beautiful, radiant smile. Nam had seen her a few times walking in the park where he used to come every weekend to paint.

Putting his freshly cleaned brushes in a bag, Nam said, “Thank you for the compliment.”

The woman hesitated but the words slipped out of her mouth, “You really are a talented painter !”

Nam was lost for a second ; he was not sure how to answer her. Yet the woman continued to talk passionately, “There is absolutely no difference between the scenery Mother Nature provides, and the one in your painting. Wow ! The leaves on those branches, green-yellow and orange-red, those colors of late autumn, you have brought them so skillfully into the canvas. Look at how similar those marvelous slabs of stone bathing in calm water are to pools of gleaming sunshine ! And at how lively that little rippling stream is curving away …”

Nam smiled and interrupted her, “Thank you again. The lively state you just mentioned is not really true. Look, anytime a breeze wafted, the leaves on those branches rustled, but the ones on my canvas are motionless. Therefore, a painting that draws upon any real object or scenery, no matter how much people like it, is just a duplication. The painting becomes something similar to life, but not real-as-life.”

With her fingers intertwined in front of her chest, she nodded. “I agree. The painting, similar to life, is indeed a product of studied skills. It demands a remarkable command of techniques, of colors blending in good harmony, and of structure well disposed. Also, for the painting to be soulful, lighting placed in correct places is very important. To attain all these is not easy… But for painting to be real-as-life ! How can we realize something like that ? Is it too visionary ? How does one make the leaves in the canvas tremble each time there is a breeze ? You must be joking, aren’t you ?” “As a matter of fact, the question of whether it is too visionary or not, is up to the person’s ability to reason and to perceive. However, I think there is nothing that man cannot do. The issue is how to reach that goal. Piles of untangled threads are ahead of me, and I keep struggling in vain to locate the starting point.”

“Ah, you are so hard on yourself. You are too ambitious. I have the impression that you are not happy with your recent artwork ?”

As if she had touched his deep secret, Nam sighed. “Yes, you’re right. For a long time now, I have not been satisfied with anything I have done…Every time I finished a piece of artwork, I often feel irritated…”

“Why so ?”

Suddenly, Nam moaned, “Why ? Why ! God, I have asked myself this question a thousand times, and I never can answer it…”

Smiling, the woman lowered her voice, “I think your paintings will be appreciated by many people, because the colors you put together are so well coordinated and vivid.”

On hearing these words, Nam burst out laughing. He said that he wanted to give her the painting he had freshly finished.

The woman’s eyes widened in surprise, and she gasped, “How can it be ? I can’t accept such a gift…”

With a hearty voice, Nam said, “You are not the first person to whom I have given away a painting. If you like it, please take it. Since you regard my painting as a worthy object, I am very touched.”

2-

The sun disappeared long ago, but Nam still stayed in the park, sitting on a bench. At this moment of the day, there were a very few people around. The hush of the night and the cool air of autumn made Nam feel in good spirits. During weekdays, to earn a humble living, Nam had to work part-time for a company in town. His spare time and weekends were the moments when he could devote himself totally to his passion of painting.

Nam leaned back and kept his eyes tightly closed. A great number of colors, one after another, came from nowhere and danced in his mind. Amid them appeared the amiable smile of the lady he met earlier…Very clearly, her kind words rang in his ears, and the image of her holding the painting gripped his heart. This was neither the first time he heard people complimenting him, nor the first time he had given away his paintings to strangers because of their appreciation. If others happened to dislike his artwork, or if they did not want to take them home, he would throw the works away, as he had done so many times in the last few years.

He sighed. Why should he keep artwork that did not completely satisfy him ?

Nam tiredly put all his tools into the trunk of his old car, and got ready to go home. From far away, a small car rolled toward him. Its headlights glared and irritated Nam’s eyes. The car slowed down and the pretty face of the woman he met earlier stuck out of the window.

“Oh ! Mister Artist, I forgot to ask for your name !” she cheerfully said.

Nam politely smiled. He took a business card from his wallet and gave it to her. The young woman held the small card in her hand. She glanced at the lines printed on it, and she said earnestly, “I hope that you will be satisfied with your new painting projects.”

“My painting projects ?”

“Yeah ! Your upcoming creations,” she answered.

Creations ! Creations ! In a flash, these words somehow seemed to reverberate in the dark, immense sky. They carried an inscrutable power ; they thundered in Nam’s mind so loudly that he felt dizzy. His ears felt full to bursting. His vision blurred. He was speechless.

Creativity !

Miraculously, this word came clearly as a revelation, a key that began the initial opening of his spirit. Nam felt a tremendous surge of energy flowing within his body. This compelling force was hard to describe, because he had never experienced anything like it. Nevertheless, he felt so comfortable, so good, so happy, and so inspired.

Nam stood up straight. His eyes were shut tight. He joined his hands in front of his chest for a moment. He held them up, as if ready to embrace something. He seemed to be waiting to receive a heavenly response. The energy moved quickly from left to right, from the bottom up. When it reached the tip of his nose, its heat diminished. At this moment, Nam perceived an extremely luminous and dazzling ray of light. This light ray converged between his eyebrows, and hit him in full force. It was like a headlight that shined into every chamber of his mind. It was like a torch that illuminated every cell in his cave of knowledge. Nam sunk into the deep hollow of a dream-like state.

Creativity ! Oh yes, the artist cannot be a ruminant. The artist must not mimic the reproductive job, as done by merchants. The mission of the artist is to create. It is he who supposes to strike out the road leading to new horizons. It is he who makes the Garden of Wonders bloom with new flowers.

Nam discovered that he had carried this enormous yearning in his heart for a long time. His desire for satisfaction was floating like an empty bottle on the immense ocean. It kept floating, floating to nowhere. But today, it had found a place to land. In Nam, an unexplored field was ready to be cultivated. In him, the promise of an abundant harvest was at hand.

Was Nam too optimistic ?

In happiness, Nam also found himself in a state of anxiety. For him, Art was vastly vague, and the artist’s vision was different from the vision of others. The perceptions and judgments of mankind were shaped by measurements and patterns. People usually criticized others based on existing formulas and principles. Many celebrities, or individuals in authority, granted themselves the right to evaluate other people’s works ; their judgments were sometimes very strict, sometimes very unfair. Often works of art impregnated with creativity were rejected, ridiculed, or dismissed during their first moments of life. But the past had proven that artists were years ahead of many people on the path to the aesthetic realization. Therefore, the journey of an artist was often quite lonely, because where would one find a soul with the same vision ?

If Nam were not optimistic or self-confident, perhaps he might find himself stepping in the same place forever. He would, in chagrin, torment himself each time he finished a painting and would never be satisfied.

Why did he have to care about people’s criticisms, and, in so doing, dare not to strive on his own terms for what he desired most ?

Nam was like an artist who had been in a deep sleep, who had buried his noble duty of creating Art. He had just been awakened. He stretched himself as if to emancipate his subconscious. He needed to free himself from everything.

In the darkness of nightfall in the park, Nam staggered forward drunkenly. He was inebriated with his dream, a glorious vision that he would make come true…

3 –

Nam stood a long time in front of a canvas. What subject was he going to draw ?

He watched through his door the living montage of a child playing with water splashed from a fountain. How beautiful it was ! But Nam did not like the idea of copying it and framing it into the formatted canvas. The photographer, with his digital camera, could do the job easily in a few seconds.

He recalled the smile of the lady he met more than three months ago at the park. What a strange smile ! Her lips were crooked. Slightly crooked, just enough to show her charming teeth. No, no ! Nam refused to draw this image from memory. Though her hair waving in the sunset was very poetic, Nam did not want to illustrate it. That kind of work was now history.

He imagined the greenish rice paddies of his fatherland. Soft stalks of rice laid down flat on the muddy water each time there was a breeze. Country girls marched in cadence along the embankments and on their shoulders bamboo poles holding a basket at each end. The boy herder hurried his water buffalo home.

His imagination showed him the picturesque scenery of banana trees and a graceful bamboo forest ; then a landscape of bushy exotic flowers, trellis of climbing greens next to thatched cottages of the countryside.

His imagination showed him a picture of a mysterious pagoda with an old meditating monk seeking enlightenment. Oh yes, the picture would be perfect with the presence of man, scenery, and spirit. What texture should I use to detail on the canvas everything accordingly and harmoniously ? What colors should I choose to express the monk in deep thought, looking so immovable outside, but not so imperturbable inside ? And enlightenment itself ! How shall I show the miraculous ascending fog or the aura around the monk, or his attainment of Nirvana where he wished to ascend ?”

No, Nam did not want to put his imagination onto the canvas. When imagining, the artist usually has to exercise the power of his mind, envisioning everything ahead of time, as he would wish it. Therefore, he becomes the master of his plan. The artist concocts that imaginative picture logically and skillfully in his head, and then translates it into marks on the canvas. This is not an act of creativity, but more an elaboration and evolution of thought. It is a representation of an artistic project already set in the mind. No matter how perfect the formation of that “image” becomes in reality, it is still related to this individual’s knowledge and experiences during life. Old ideas are renewed, which is like warming another bottle of rice wine, and not the creation of a brand new exceptional beverage.

Realization of an aspiring project is to bring to life seeds of ideas already germinating in the subconscious, and to nurture them when time permits.

Creation is to invent something completely new that no one has ever known, seen, touched, or heard, including the artist himself.

Nam scratched his head and pounded his chest, perspiration dotting his forehead. Creativity ! God, where can I find the keys to break out of this vicious cycle and to open the flow of Inspiration ?

Nam threw his brush aside and walked away…

Many months went by and Nam lived in restlessness and agony because he found no way out of the labyrinth. He was determined to not repeat the way he painted in the past, and he was driven to pursue his goal to the end. But the path to a new idea was so uncertain, since the human capability to liberate the brain was very limited.…

Nam was always in a state of doubt. He endeavored to climb to the next step, but his spirit seemed too foolish and would not cooperate with the cry of his heart.

“Keep seeking and you will find. Keep knocking and the door will open…” Who had said that ?

There were a million times that Nam did look, only to find nothing. A million knocks ! And doors still closed tight. Faith he had aplenty. Of confidence, a full heart. But like a circle, everything seemed go back to where it started, he thought bitterly.

There were so many afternoons that Nam spent driving to the countryside, parking his car in a certain desolate area. There, he felt more relaxed and peaceful. Leaving the car and all anxieties behind, he walked miles and miles straight ahead without looking around, without a thought in his head. Nam wished to erase that thing in him called knowledge. He wanted to empty his brain, for it to be like a blank sheet of paper, and for Nam to begin anew…

4-

Nam stood in front of the canvas. He held a brush in one hand, a tube of paint in the other. All preceding accustomed ideas and previous clichés were forgotten. There was nothing in his head. He had already decided that the job of constructing a painting was no longer his, but a job for the God of Creativity. Let Creativity create itself, and invention will be manifested to its best. Nam’s body, Nam’s hands…they were just tools like the canvas, or the easel, or the brushes, or the paints. The only difference between them was the nervous system in his body that monitored his hands, to function in gathering all necessary materials to structure a painting. This necessary determination was not under Nam’s control. It arose according to Creativity’s needs. No subject. No evaluation. No need for concern. His physical body was a robot. His soul was definitely the artist. In such a position, Nam lifted his hand and proceeded…

The strokes of color were applied one after another on the canvas. They blended into each other, and did not show any particular shape. Once Nam’s hands were tired of the job, he quit. He stepped back. He burst into sarcastic laughter and shook his head. Was it a painting ? Ha ! If it were a painting, then it was done by someone who knew nothing about the techniques of the visual art, or, even worse, it looked like a crazy person painted it ! Nam felt so disappointed that he threw his brush and walked away for lunch….

When Nam came back, he stood pensively ; trying not to use reason, he quietly observed the unfinished picture that he left earlier. Astonishingly, those curious colorful paint strokes blended into each other magnificently. They did not follow any discipline. They were totally free, wild. They were cross-marked, childishly… But, please look, they seemed to change their shapes and composition differently depending where Nam stood. What a dramatic transformation ! The more Nam looked at the freshly painted canvas, the more he felt ecstatically passionate. It was the passion of a person who went from discovery to discovery. ..Visions of newly found imageries led Nam to add his final touch.

He entitled his new painting, “Diversities”.

That was the first painting Nam achieved with his break-through process of creativity.

Being freed from ego, Nam’s body worked independently of his mind during the painting process. The artist in him had changed miraculously. For each piece, Nam did not exercise the same technique. In the beginning, Nam used brushes to paint. Later, he switched to knives. At times his fingertips replaced brushes and knives to become extraordinary tools. The type of media was also randomly chosen. It was not necessary to use a such and such material, or a particular brand name product, or a concoction of a formulated mixture. Creativity, by its nature, possessed its own color, its own technique, and its own judgment. It bypassed all existing standards ; it did not care about rigid rules made up by life. Creativity, in action, burst out great unexpected ideas, which erupted with spontaneous and vivid metamorphosis, from outline to structure. Therefore, it skipped the conception period, and excelled beyond measure.

When inspiration came, Nam was unable to control himself. He worked continuously without breaks. There were days and nights when he stayed awake without fatigue. When hunger stroked, he ate while watching the painting closely. Through the mystical colors, his eyes visualized some vague initial imagery. He then pursued these images to give them form. The painting became amazingly versatile because its perspective was comprised of many interesting and strange facets… it had an odd quality, a silent voice, and carried within it music. The artwork transmitted to its viewers ecstatic vibrations, allowing them to discover within themselves strong emotions of desire, of unrealized wishes, of sorrow, and of hope…its characteristics fluctuated fluidly because it depended upon the viewer’s personality, point of view, and experience. The viewer’s shifting mood made the artwork become real-as-life, a breathing and living being. The painting was therefore not only an object of art to please the eyes, but also it hinted notes of music that formed a melody on your tongue ; it could be read, and gave you joy in each discovery ; it could be heard as the voice of your deepest self, urging you to acknowledge the infinite power of your own imagination.

It can be said that creativity is a string of beads of newness. Each bead represents newness, and each one is newer than the last. In this way, it goes on endlessly, as life continues its course.

5 –

The man who just stepped in the door introduced himself as an art dealer from New York. He was very tall with deep green eyes, a receding chin, and very thin lips. He spoke English with an accent. He was an Irish-American.

The art dealer gazed a long time at each of Nam’s paintings. At times, he nodded his head, or held his chin in a pensive mode.

He said that his friends were talking about Nam with admiration ; that was the reason he had come to visit him, because of curiosity. He mentioned that he was willing to do some business with Nam. He showed Nam a van loaded with artwork that he recently bought from many local painters at very reasonable prices, no more than five hundred dollars each.

Nam did not feel sympathy for the dealer. However, because of his experience and knowledge of the art world, Nam was curious to know how the art dealer regarded his works.

The man pointed at a painting entitled “No Apples.” In it was a young woman with a dreamy face ; her body was partially nude. She was lifting up her arms, palms facing outwards. Under a sky of green leaves, her arms were opened wide as in an embrace, reflecting her zest for life. In her reflected beams of hope. In her reflected passion, and tolerance… The art dealer questioned the title, he had found nothing related to it in the content of the artwork.

No Apple by HKKM - 36.1 koNo Apple by HKKM

“Why not ?” Nam asked. He explained, “That woman is Eve. In many people’s mind, Eve was sinful. In this canvas, I painted her as she was before the apple legend, a time when she was extremely pure. She represents women of all ages on Earth…Sin is an act of wrongdoing committed by individuals ; then, why did the whole community have to bear the blame for it ?” “No Apples” revealed a cry, a protest.

The art dealer was astounded ; he rolled his eyes and stood thoughtfully for a moment.

The piece that the dealer liked the most was the one entitled “Unlimited Prosperity”. He offered to buy it for two thousand dollars. Nam shook his head. He increased it a couple thousand dollars more. Nam still said no. He continued to offer more and more money, and finally stopped at twenty thousand dollars. Nam kept shaking his head.

The dealer was furious. He said, “As an unknown painter, how could you ask for more money than that ?”

He explained that he had bought and sold art works for many years in New York. He had a huge list of buyers. Many of his clients belonged to the high-class society. Some of them were so wealthy that they did not see the difference between one hundred thousand to two hundred thousand dollars. They could easily afford to pay millions of dollars for something that interested them.

He tried to convince Nam to sell his artwork and not keep them. “Artists are human beings who needed material things to survive. Art is noble but Art has to serve people. First of all, it needs to feed the person who creates it before it serves the public.” He coached Nam : “You need to build a reputation. Sell this artwork now, and later you will make another one, that’s easy….”

Nam shook his head as usual. He knew very well that he was not a machine. Each of his artwork was unique. He had no ability to duplicate his own work. His painting was as priceless as his own child. Who had the heart to sell his child ? It was Nam who was willing to serve Art and rise with it, and he accepted the fact that Art did not serve him for his daily bread and butter.

In the dealer’s eyes, this was nothing new ; there was nothing strange in Nam’s attitude. In his business, he often had conflicts with talented, eccentric artists. Most of them were very arrogant and thought that their products were unique, second to none. “Well, that is the common craziness of someone who is capable of doing extraordinary things, I guess…” the dealer told himself.

He understood the case so well and knew that he would be patient. Handing to Nam his business card, the art dealer hoped that Nam would change his mind one day. Patting Nam’s shoulder, he told him in a friendly voice, “You are exceptional ! I enjoyed your paintings very much, and I really admire you.”

As he walked to the door, he turned his head and said, “My friend, please always keep in mind that you should not sell your works too cheaply. You name the price and people will follow…”

Nam nodded his head with gratitude.

6 –

The New-Face-and-Space Gallery was located at Alberta Street, a neighborhood full of not-so-fancy houses in the northeast area of the city. A decade ago, decent people did not dare to come here because it was a place where notorious gangs gathered on a regular basis. When darkness fell, prostitutes lined up on every corner of the streets to look for customers. Shootings occurred almost daily, and unsolved crimes were numerous. The majority of its residents were African-American and new immigrants, because housing was extremely cheap. Soon many local artists who had recently lost their spots at a downtown quarter settled themselves in this affordable northeast neighborhood.

With the presence of so many artists’ studios, the businesses on Alberta Street became amazingly prosperous. Buildings with tin roofs, and formerly dirty large warehouses were renovated nicely. Traces of multicolor graffiti and holes from countless bullet marks disappeared. On the surface, people saw new layers of paints with fashionable colors and signs carrying interesting names. Restaurants, espresso huts, and numerous retail businesses existed side-by-side, up and down the street. Galleries, selling a variety of artwork, sprouted like mushrooms in season.

Louis, the owner of the New-Face-and-Space gallery was in his forties, a black man. Although his clothes were clean and his hair well groomed, he could not hide his face, gaunt due to lack of sleep. He studied the five works of art that Nam brought in as samples. He rubbed his hands to express his satisfaction with the way Nam had built his paintings. He muttered pleasantly that in Nam’s works, there were many interesting things that he had never seen before. He remarked that some acrylic folding lines in one artwork looked fantastic. Very humbly, Nam expressed his wish that his artwork be exhibited in the upcoming art festival. The gallery owner laughed heartily and said that he would be pleased to do so.

Conditions and terms of an agreement between the gallery owner and the consigner were discussed as usual. When approaching the commission part, the black man’s face beamed. But his smile disappeared when Nam showed him the prices he wanted to sell his paintings for.

The man said angrily, “My God ! Who you think you are to sell these paintings for millions of dollars ? Man, are you that crazy ? Do you know Thomas Kinkade ? He is a famous painter, and he does not ask the prices you do. What makes you that silly ? You are just a deadbeat unknown artist…”

In a conciliatory posture, Nam replied, “As I understand it, everyone on Earth has to start as an unknown person in his debut, and I am no exception. The issue is whether my artwork will be appreciated or not. That is the point, for an artist to be recognized for his art.”

Louis scratched his head. He said, “First of all, you should know that I have opened a business to make money. If my goods are selling well, that’s good. The word ’exhibition’ sounds nice and pleasant to the ear ; however, the bottom line is money, money, and money…. Why should I display your stuff just for fun ? I must keep this business alive ; I have a pile of bills to pay…”

He tapped his hand on his belly and continued, “The truth is, this stomach has gone hungry many times. To be an art dealer in this poor neighborhood is miserable. Happy days are only the days of festivals. Once in a while, I baby-sit the neighbor’s kids to survive. I know that you are in no better shoes than I am. I suggest to you to start selling your products for two to three hundred dollars each, so that people can afford to buy them. Once the market for your artwork is booming and your name reaches more people, you can set the prices a little bit higher. You know, you should climb the ladder one step at a time.”

Like a dancing rapper, as he talked, he broke into a little dance. He bent himself slightly and marched forward one step at a time with knees high and arms moving along. “The slower you go the more stable you are on your feet. Understand ?”

To show the gallery owner his appreciation and understanding, Nam offered to pay him some rent for the exhibition time. But lowering the selling prices of his artwork was not possible. Nam told Louis that he harbored resentment against society for its injustices toward artists. During their lifetime, their artwork are often not welcomed or appreciated. Merchants, under many guises and ploys, usually try to make a big profit on paintings they buy, leaving to the artists just barely the cost of the materials used. Gallery owners are hard on emerging artists ; they regularly treat the latter with a half-interested attitude. If there happens to be an exhibition or show, participation is treated as a great favor. To be presented in public, an artist has to learn the art of bending to the lowest level ; in doing so, he needs to swallow his pride. Many artists live in misery. Because of their poverty, people often misjudge them.

Nam’s voice became more and more insistent. He brought up the case of the prominent artist Frida Kahlo. During her lifetime, her paintings were almost worthless. Kahlo lived her life under the shadow of her husband, Diego Rivera. It took more than seventy years for her works to be recognized and honored. Nowadays, when her paintings are sold for five million dollars each, Kahlo is a ghost ! Was that ghost floating next to her beloved paintings, waiting for her day of glory ? Was she happy with the late accolades she received ? Seventy years was surely long enough for another life !

Artists toiled their entire lives to create art, but who actually profits ?

Looking stern, Nam spoke with a sharp edge to his voice, “Oh yeah, I am a rebel artist. I want to break the chains to change traditions…Up to now, all deceased and living artists are victims…I wish to reap my crop from all the seeds I have sowed. How much I wish to taste the flavor of glory when I am still alive. One day, when I am no longer in this world, what good would it bring me for you people to tell stories, honoring me and making money off me ? What nonsense !”

Louis stared at Nam. The face of this artist was wrinkled in pain as he poured out his soul. Louis put his hand on Nam’s shoulder and said, “Does it mean that you will not sell these paintings if you do not get the prices you want ?”

Imperturbably, Nam responded, “You are absolutely right.”

Louis burst out in resonant laughter. Conviction was written on his face. He proclaimed loudly, “Doggone it ! I definitely like your positive attitude. Man, I can do the same thing too !… I will let you exhibit your artwork this time, with no rent.”

As if to console himself, he joked, “I should admit that I find your paintings very interesting…. Who knows ? As a matter of fact, since there is a crazy artist like you and a crazy art dealer like me, it is very possible that there will be a crazy buyer somewhere who will spend millions to buy a product by an unknown painter, too. Hahaha !.. We will split fifty-fifty, won’t we ?”

7 –

Hundreds of people from all over the city came in crowds to Alberta Street. From the beginning to the street, more than fifty galleries opened their doors for shows. A large variety of artwork with all kinds of techniques, all kinds of colors, was presented. Some paintings showed delightful angelic images of dreams, contrasting to others full of extraordinary odd characters from outer space, or devils in their rage. Other paintings expressed inner feelings through the presentation of a number of vibrant colors. These colors, in stark contrast to each other, irritated people’s eyes at first ; but they did carry new and interesting traits. There were paintings created with extremely delicate touch, while others exhibited unexpected simplicity showing just a few straight lines on a dark, monochrome canvas. The very odd ones had human beings’ legs and arms upside down and eyes, nose, mouth that were not at their normal places. Taking advantage of new technology, some artists had used computers to create beautiful digital images… Mankind was so rich in imagination that showed a great abundance and diversity in Art. If there ever were a contest, it would be hard to judge fairly because each work had its own pride and value.

There were bountiful displays of endowments of the mind and it was difficult to enjoy all of them in such a crowded and noisy environment. People browsed the galleries like they were window shopping in a mall. They glanced at everything, with a just-looking attitude, and not fully appreciating Art. As a result, business was negligible at many galleries.

But anyone who chanced to step in the New-Face-and-Space gallery stayed there a long time. First, it was due to the solemn atmosphere of the place, and secondly, it was the enormous price attached to each masterpiece. People were willing to spend time observing and studying the pieces. They tried curiously to figure out why those paintings cost a fortune. The prices ranged from five hundred thousand dollars to five million dollars !

The exhibition room was huge. Under a well-arranged lighting system with special small bulbs, the paintings seemed to rise, seemed to brighten up, seemed to welcome everybody with a warm glow. More than sixty works of art created by the artist Pham Ky Nam spread a wonderful spirit that moved people’s heart.

The artist stood at a corner of the gallery. He silently watched the public in the room. There were whispers. Fingers pointed. There were half-closed eyes as if the viewer was in a dream state.…

A young blonde woman wiped her tears and laid her head on her boyfriend’s shoulder. The man put his arm around his lover’s waist, and asked what made her cry. Pointing at the painting titled “No Apples”, she said with a sniff, “Darling, am I that woman in the canvas ? She is so wonderful. I feel my soul flying in the air…”

An Oriental man, his chin cupped in his hand, studied attentively, unblinking, a painting titled “Hope Never Dies”. A bright yellow globe floated in the stormy ocean. Turbulent waves, merciless whirlwinds were attacking it incessantly, but the globe was still afloat, thanks to a tiny fragile feather that kept it lifted up at all times….

An elderly couple with gray hair stood for more than fifteen minutes in front of the painting titled “Unlimited Prosperity”. They did not bother to move on to other artwork. The man changed his posture many times ; his head kept bending to observe the painting in many angles. The wife seemed to be in great excitement as she leaned toward her husband, and whispered some words. The latter nodded his head, his eyes still glued to the images he saw in the painting. They looked like a happy couple.

Nam approached them. He introduced himself as the author of all the artwork exhibited in the gallery. He offered to answer their questions, if any. The man cleared his throat, and then said, “The texture of this painting is very special. There is something in there that draws me into it and makes me feel attached to it. I sense joy, happiness, and my spirit is being inexplicably lifted up. I enjoy it very much. But I cannot understand… I have no doubt that the painting is very interesting ; it is remarkably beautiful and it is rare. However, what makes it so pricey ? Is it worth five million dollars ?”

Nam smiled. He spoke slowly, “Well, I would like to ask you to just use your imagination for a moment… Assume that I am presenting you with a bucket. Yes, a bucket full of diamonds. They weigh five carats each. How do you react to that tremendous wealth ?”

The man and woman, puzzled, did not know how to answer his question. Nam stared at them for a moment, and continued, “Isn’t it true that your reaction would be something like this ?”

As he finished his words, Nam widened his eyes. His mouth opened in amazement. His arms rose up to the level of his shoulders, and they stayed there as if frozen.

The woman nodded her head repeatedly, “Yes ! Exactly !”

Nam immediately raised his finger and happily said, “That’s it ! When you first saw this painting, your reaction was definitely like the gestures I just demonstrated… Please read carefully the words written below the painting. It expresses the spirit of the artwork.”

The old man bent himself forward ; and he read each syllable slowly : UN-LI-MI-TED, PROS-PE-RI-TY. He asked Nam why the artwork bore that name.

Nam asked back, “Do both of you see countless diamonds that are scintillating in there ?”

The woman observed knife marks that gave faceted dimensions to the painting, as if in cuts of the most precious gems, and she murmured, “Oh yes, there are so many diamonds…”

“Both of you, please bend your head a little bit and you will see numerous gold, silver and bronze medallions.”

“Oh yes, my God ! Why, so many medallions !”

“Step back a little, and do you not see mountains of gold and mines of silver that instantly appear and disappear ?”

Rubbing his eyes, the man nodded his head. “That is right. Amazing ! Before this, I just saw a big canvas with some mystical colors. Now, as you pointed out, I discover within it so many hidden treasures. Ah, they all hide in the depth of that painting…”

“Of course, people usually conceal their fortunes in secret places. If not, the thieves would rob them,” Nam joked. “Well, you guys should look for more stuff. Do you see a bouquet of blooming roses ? Ah, la vie en rose ! Yes, diamonds stand for being in an eminent environment of richness and nobility. Gold and silver stand for wealth. Medallions stand for honor. Blooming roses stand for infinite happiness… That is absolutely unlimited prosperity, isn’t it ? You bring home an enormous treasure, and you only pay five million dollars ! I think it is a very good deal…”

“Yes ! Yes ! It is a good deal for something that is so fantastic. However, where will we find the money to buy it ?”

As easygoing as he was, Nam said, “Well, if you can not afford to buy my painting, why don’t I let you touch it ? Is that fair ?”

They eagerly and impetuously replied, “That’s good enough !”

The old couple went near the painting “Unlimited Prosperity”. Each of them took Nam’s offer seriously and, as they lightly touched the images on the canvas, their faces showed great satisfaction. All the men and women present in the gallery requested Nam to grant them the same opportunity. From nowhere, people in waves kept coming in. Forming a long line, they snaked forward to touch that specific work, even though most of them did not hear the conversation between Nam and the old couple. They mimicked the gestures of others without questioning.

The owner of the Face-and-Space gallery stood speechless and motionless for a moment. He never saw a strange situation like this before. He then furrowed his eyebrows in wonder. He shook his head. He muttered to himself, “It’s unbelievable that this Earth has so many people who lose their mind nowadays…”

8 –

On the very first day, the gallery had attracted a huge crowd. But over the next few days, it was so quiet. Louis was terribly sad. The exhibition would be ending in one hour and he had sold nothing.

Louis’s stomach ached when he remembered his spontaneous, excited offer of free rent to Nam, while bills kept piling up on his desk every day. He felt very uncomfortable each time Nam reminded him of the spectacular scene of people lining up to touch his painting. Nam seemed to enjoy this very much. There was no doubt that this guy was very eloquent. Whoa ! His tongue was as smooth as if it were covered with grease, as sweet as sugar, and people easily accepted whatever he said. His artwork was strangely magnetic, too. That night, it appeared that everyone was fascinated with what they saw.

Louis walked tiredly up and down the room. He reminded Nam to immediately remove all his paintings when the exhibition was over, because Louis had already invited another group of painters to display their works the next day. Nam nodded without a word. He understood Louis’s concern. This guy looked at painting as a job to earn a living ; he was not an artist who regarded painting as a noble and destined obligation. Louis was in business, so gain and loss should be considered seriously. There was absolutely nothing wrong with this attitude because each individual had his own imperatives. No one was completely wrong. No one was completely right.

Suddenly, a group of strangers walked in, and their presence interrupted Nam’s thoughts. They all were very well dressed, with suit and ties. They said that they had just participated in the inauguration of a charity organization nearby. Before they headed home, they wanted to pay a visit to the neighborhood. They wished to know the living condition of local artists.

Louis greeted the crowd with generosity and invited them inside. Talking about the Alberta neighborhood was something Louis really enjoyed doing. Louis was born and raised there. He was extremely proud that, not only his black community, but also Alberta, had become a cultural and artistic center of the city.

Leaving Louis to brag about his neighborhood, Nam followed the footsteps of another visitor who showed more interest in the surrounding art than the lecture. He quietly observed every change of expression on this man’s face, when the latter moved from one painting to another. The man looked solemn.

When facing the artwork entitled “Unlimited Prosperity”, the visitor could not hide his emotions. He looked at it attentively and raised his eyebrows. Was it deja vu ? The more he looked at it, the more he found it so astutely familiar. He squeezed his forehead. He tightened his lips. He crossed his arms in front of him and then dropped them down. Finally, he walked to the next painting, only to go back immediately to the previous one. What made him so attached to it ? He heard an inner voice saying that the piece was made for him. It must be his. Yes, it had to be his.

The visitor turned around. Without hesitation, Nam said, half jokingly, that the painting had indeed been longing for its owner for quite a long time. The visitor smiled gently, saying nothing…

Louis was trembling as if he were in the middle of a fever. In his hands was a check for five million dollars that he just received moments ago. The number five followed by six zeros and the line “five million dollars” in writing danced in front of him. Louis suddenly burst out crying. He could not believe that he had become a millionaire at last. He moaned, “Oh my blessed God ! Oh my dear Nam !”

9 –

Nam leaned his head back on the sofa, his eyes still on the television set. In the last few days, in daily news, all the TV channels and all the newspapers worldwide repeated a recent hot event. In all history of the visual art, it was the first time that an unknown living painter, Pham Ky Nam, had broken a record. One of his paintings had sold for five million dollars !

Nam recalled an article he had read yesterday in the New York Times. The buyer of the painting “Unlimited Prosperity” claimed that he felt lucky to own a piece of valuable artwork. He was asked what made him purchase a painting created by an unknown artist for a tremendous amount of money, and why did he consider that painting a treasure ? The man answered that he did not care where the artist’s reputation stood in society. For him, the substance of the work counted most.

Yes, for him, it was absolutely a treasure. He said that the painting contained a very rich depth within. He could not go further in details. However, he was pleased to share with the public some pleasant and interesting things. For instance, when he first “met” the painting on Alberta Street, it identified him instantly. He had a vision of several gates opening widely to invite him to enter. A giant castle with many windows suddenly appeared before him. As soon as he pointed his finger at a window, a sea of wealth poured into that window continuously. Money from all over the world was flowing nonstop into the castle.

The reporter asked, “Many people said that they saw gems, medallions, precious metals, and roses in the painting. Do you see them ?”

“Of course, yes. There are plenty of them in my home. So I was not a bit surprised when I saw them in there.”

“We all know that before you bought the painting, you were, and still are, the richest man on Earth. Do you need to be richer ?”

“My own masterpiece, “The Windows,” that I created a few years ago, did bring me unlimited prosperity so far. Why do I need Mr. Pham’s painting to bring me another fortune ? As you see, the word Windows ends with an ‘s’ ; it means that I have numerous more windows to open. All my future jobs will surely not be because of money. My goal is to serve humanity, heading to more fantastic and satisfactory horizons. Many windows of creativity will be widely opened. In the next generations, mankind will rise and keep rising forever to conquer the other spaces. Nowadays, the computer has its magic hands to reach, in the twinkle of an eye, people all over the world. But in the very near future, we will be able to contact, to communicate, to trade, and to cooperate with many extra-terrestrial individuals, especially the ones on the planet of Mars… Ah ! I have gone too far ; out of subject…Let me go back to the question… I bought Mr. Pham’s painting for… First, I want to show my deep appreciation for him who elucidated so well the word “creativity” through his work. Secondly, I totally agree with his concept ; if a creation is capable of responding to and of satisfying mankind’s thirst of new adventures, evidently prosperity will come along with it, unlimited. I am a living example… honor and wealth do not come to me as lottery winnings. They are the rewards for my accomplished creations.”

“So, the painting “Unlimited Prosperity” is an unnecessary object for your wealth ?”

“Why is it unnecessary ? The painting and I, we were looking for each other to improve upon each other. It will be a link between the arts on Earth and the extraordinary and spectacular ones in the planets that we are going to be friends with. For that reason, it is definitely a treasure…I believe that I am the only one who is capable of keeping it safe. Temporarily, please look at me as a trusted guardian …”

10 –

Barbra Winter, the reporter of Channel ABCD News, visited Nam when he was busy reading his emails coming from every corner of the world. After a half hour answering her questions regarding his life, Nam felt exhausted.

Barbra wished to see his paintings. Nam did not feel enthusiastic about the request. However, he led her to his bedroom anyway.

“Oh !” Barbra gasped out loud.

On the four big walls of a good size room, Nam hung side-by-side many of his artwork. Upon entering his bedroom, Nam joked heartily, “There were times I was happy to think that, if one day I fell into a deep sleep and never woke up, people would discover my dead body laying in a forest of artwork. That would be so fantastic…”

The reporter knew how to joke too. She said, “You are really a romantic painter ! But to lie in an environment filled with colors like this, do you sometimes feel suffocated ?”

Nam laughed easily, “Not at all ! Every day, while in bed, I can immerse myself in my own works, and I feel overwhelmed each time I discover a new miraculous image popping out from a such and such painting.”

“It means that your artwork keeps creating continuously ?”

“Exactly ! They do not make you feel tired of them, because they always produce new impressions for the viewers.”

Barbra posed a question, “What made you price the painting, “Unlimited Prosperity,” at five million dollars ? And why did you choose that number ?”

“I asked five million dollars to test the power of its spirit, and it worked ! It is a challenging number because in the past, only the artwork of artists who have been dead at least 25 years have sold for millions of dollars.”

Barbra asked, “If you knew that the painting “Unlimited Prosperity” has the ability to bring infinite wealth to anybody who owns it, would you keep it for your own sake ?”

Nam furrowed his brows. He paused for a moment. When he spoke, his voice was deep with emotions but crisp, “A masterpiece that carries a creative power within itself, once it has been accomplished, no longer belongs to the person who created it. It must be released to the world…”

He was pensive for a while. Then, with a mellow smile, he continued, “It is the same for human beings. Children are parents’ masterpieces, full of creative power. Once these children reached adulthood, they will spread their wings to fly high. And they will create new generations that keep going endlessly.”

Pointing at the many paintings hanging on the walls, he said, “With all of this, I am a prosperous person, am I not ?”

“Does it mean that they will bring you a good fortune and a great reputation ?”

“They may. However, please keep in mind that an artist feels much more fulfilled in creativity than in being prosperous materially.”

With admiration, Barbra nodded her head. She said, “Mr. Pham, you truly are an artist !”

The evening came fast. Sunset was on its way to leap over the hills. Nam watched the streetlights just illuminated, his hands clasped together. He murmured to himself the old phrase, “Keep seeking and you will find. Keep knocking and the doors will open.”

Yes, I have sought and I have found. I did knock and doors were opened.

What blessedness !

HKKM, 2003

Catégories
Prose

Huy Cận trong Tôi

Tác giả Lửa Thiêng, Huy Cận vừa qua đời tại Hà Nội, lúc 21 giờ ngày 19 tháng 2-2005, thọ 86 tuổi.

Nhà thơ Bùi Giáng, 1926-1998, có kể lại cơ duyên đã đưa ông vào sự nghiệp văn chương : « vào năm 1943, trước đó một năm, hay chính vào năm đó, ở Việt Nam có thằng thiếu niên Việt gặp được một vần lục bát in rơi rớt trên một tờ báo bạn đường :

Tâm tình một nẻo quê chung
Người về Cố quận muôn trùng ta đi.

Hình như man mác trong không gian thường có những niềm tương ngộ. »

Bùi Giáng lúc đó không tiết lộ tác giả hai câu thơ. Nhưng nơi khác trong một bài dài ca ngợi thơ Huy Cận, ông đã dẫn chứng chính xác :
« Huy Cận là người đồng quận Nguyễn Du – Hà Tĩnh. Sông núi non nước kia đẹp dị thường ; và con người đất nước kia sống lận đận làm ăn cày cấy cũng cực nhọc dị thường. Giữa phong cảnh và con người từ đó liên miên có một cuộc đối thoại thiết tha không lời, về một nỗi đời bất khả tư nghì (…) Phong cảnh trong thơ Huy Cận là một loại phong cảnh đã khiến con người mở những cuộc « Lữ » huyền hoặc của Dịch Kinh…

Xa nhau mười mấy tỉnh dài,
Mơ màng suốt xứ đêm ngày nhớ nhung.
Tâm tình một nẻo quê chung ,
Người về cố quận, muôn trùng ta đi.

Nguyễn Du đã làm Liệp Hộ. Huy Cận đã đi muôn trùng. Mặc dù các ông có thể ngồi im lìm giữa một triều đình, các ông vẫn cứ thành tựu cuộc « Lữ » như thường, nơi một triều đình khác, riêng ở một góc trời miêu cương mạc ngoại.

Trông vời trời biển mêng mang
Thanh gươm yên ngựa lên đàng ruổi rong
Dừng cương nghỉ ngựa non cao
Dặm xa lữ thứ kẻ nào héo hon
Đi rồi khuất ngựa sau non
Nhỏ thưa tràng đạc tiếng còn tịch liêu

Tiếng nhỏ thưa tràng đạc đó bàng bạc tịch liêu trong Lửa Thiêng cũng như suốt Đoạn Trường Tân Thanh, là khởi sự từ một duyên do uyên nguyên thăm thẳm, mà bấy lâu ta không ngờ tới, nên thường ngạc nhiên tự hỏi vì lẽ gì thơ Huy Cận lại đạt tới hai chóp đỉnh huyền diệu nhất ở hai cõi chênh vênh, thơ phong cảnh của ông không ai kịp, thơ tình yêu của ông khiến mọi thiên hạ đầu hàng ».

Bùi Giáng có khi viết theo cao hứng. Nhưng bài này ông viết có căn cơ và căn cứ, có tình có lý hẳn hoi. Ông thuộc thơ Nguyễn Du và Huy Cận ; và năm 1951 có ra sống ở Hà Tĩnh – là tỉnh phía Bắc Việt Nam xa nhất được ông đặt chân tới.

Ông thừa biết Huy Cận là nhân vật cao cấp của một chế độ mà ông không ưa thích. Ông cũng biết Huy Cận đang ngồi giữa « triều đình » và im lìm như một Nguyễn Du xưa. Một Nguyễn Du khi lìa đời 55 tuổi đã nói với con hai chữ « thôi được » ám ảnh Huy Cận :

« Thôi được ! lời chi quá xót xa » (1996).

Về Huy Cận, hay bất cứ một tác gia đương thời nào, trên đời này chỉ có Bùi Giáng mới dám viết lời phê phán nồng nhiệt như thế ; người khác dù nghĩ như thế cũng không ai dám hạ bút – kể cả Xuân Diệu, thiết thân với Huy Cận – « Những niềm tương ngộ » như lời Bùi Giáng, cõi đời này, nhất là trong xã hội Việt Nam ngày nay, không nhiều lắm đâu.

Về đoạn Tâm tình một nẻo quê chung, người đọc không tìm thấy văn bản trong các thi tập và tuyển tập Huy Cận. Có người ngờ là Bùi Giáng phịa – mà ông cũng thường phịa. Nhưng Thanh Tuệ, nhà xuất bản An Tiêm, cho biết đúng là thơ Huy Cận, có trong một bản chép tay in tại Paris năm 1983. Tôi dò lại thì đúng, và tìm hiểu thêm về vần lục bát in rơi rớt trên một tờ báo bạn đường. Đây là bài Cảm Thông, làm năm 1940 đăng trên tạp chí Bạn Đường ở Thanh Hóa, do nhóm Hướng Đạo của Hoàng Đạo Thúy, Tạ Quang Bửu chủ trương, đã đăng bài Nguồn Gốc Truyện Kiều của Đào duy Anh, thơ Trần Mai Ninh, do Lê Hữu Kiều (Nam Mộc) đứng tên, nghĩa là một cơ quan vận động chính trị, nhất định không in bài « rơi rớt ». Tôi bèn hỏi Huy Cận : « Người về cố quận muôn trùng ta đi », thời ấy anh đã bí mật tham gia mặt trận Việt Minh, vậy « muôn trùng ta đi » có phải là đi làm cách mạng ? Anh trả lời không phải. Lúc ấy, anh đi chung một chuyến tàu với một cô bạn gái thân thiết và đồng hương ; đến ga Vinh thì cô xuống xe về Hà Tĩnh, còn Huy Cận đi tiếp « Muôn trùng ta đi, là mình nói cho oai, chớ muôn trùng chi mô » lời Huy Cận.

Tôi rất phục ; cái ý đi làm cách mạng là do tôi đề xuất, anh chỉ cần giả vờ quên, trả lời ấm ớ là tôi sẽ hồ hởi dựng nên một kịch bản huyền sử cách mạng chung quanh bài Cảm Thông, ai biết đâu mà lần ? Những Độc Hành Ca của Trần huyền Trân, Tống Biệt Hành của Thâm Tâm đều tìm ra nguồn gốc cách mạng, thì « tâm tình một nẻo quê chung » thành tích quá đi chứ ! Nhưng Huy Cận không nhận thành tích đó. Tuy nhiên lúc tôi hỏi sao anh không cho công bố bài thơ hay này, thì anh không trả lời, chỉ nói qua loa : khi chọn in thơ, lấy bài nọ thì bỏ bài kia. Nghĩa là anh không muốn nói. Kỳ thật đây là bài anh tâm đắc, đã chép tay để phổ biến hạn hẹp tại Paris năm 1983.

Tôi có nêu lên một bài khác :

Đã chảy về đâu những suối xưa ?
Đâu cơn yêu mến đến không chờ ?
Tháng ngày vùn vụt phai màu áo
Của những nàng tiên mộng trẻ thơ

Bài Buồn này, không có trong các Tuyển Tập. Huy Cận cũng chỉ ậm ừ.

Khoảng 1978, tôi có mách anh trường hợp Bùi Giáng ngưỡng mộ thơ anh, bị bệnh tâm thần, đi lang bang và nói lảm nhảm tại Sài Gòn ; và yêu cầu anh lưu ý nhà chức trách địa phương đừng làm khó dễ. Anh hứa rằng sẽ quan tâm. Khi Bùi Giáng qua đời, Huy Cận có chính thức làm thơ phúng viếng. Việc nhỏ thôi, nhưng ở cái bát trận đồ văn học Việt Nam, nó có ý nghĩa. Cũng như bài anh viếng họa sĩ Nguyễn Gia Trí năm 1993 cũng là việc nhỏ, nhưng ý nghĩa.

Việc nhỏ khác : năm 1998, tình cờ Huy Cận và Phạm Duy cùng có mặt tại Paris. Nhạc sĩ muốn quan hệ, hỏi tôi số điện thọai, tôi tham khảo Huy Cận, và anh trả lời ngay : « Phạm Duy à ? Phạm Duy thì mình phải gọi anh ấy trước, chớ sao để anh ấy gọi mình ? » Sau đó vài giờ, Phạm Duy gọi lại tôi, giọng còn rơm rớm, kể đã nói chuyện với nhau cả tiếng. Huy Cận cảm ơn Phạm Duy đã phổ nhạc bài thơ Ngậm Ngùi làm cho nhiều người biết. Sau đó nhạc sĩ sưu tập 16 giọng hát bài Ngậm Ngùi nhờ tôi chuyển về nhà thơ. Tôi biết là Huy Cận chân thành, vì bài Ngậm Ngùi kể lại một mối tình có thật, anh « ngậm ngùi » vì cô gái đẹp đi lấy chồng. Anh có nói lên điều ấy và chính thức nhắc đến nhạc phẩm Phạm Duy năm 1993, thời mà không mấy ai trong nước nói đến tên Phạm Duy.

Năm 2000, một buổi chiều đi lang bang ở Paris với Huy Cận, tôi rủ anh gọi dây nói sang Mỹ thăm Phạm Duy chơi, từ phòng điện thoại công cộng. Tôi nhìn anh trong ca-bin : lúc đầu hùng hồn, khoa chân múa tay, về sau lấy khăn tay chậm lên mắt. Không biết hai ông nói chuyện gì, tôi không hỏi.

Những đề tài lớn về Huy Cận đã, và sẽ có nhiều người nói. Tôi kể lại vài kỷ niệm tuy nhỏ nhưng đã giúp tôi đánh giá anh dưới một góc độ riêng, và kết luận Huy Cận là con người tình nghĩa, chí tình và thật tình. Thậm chí có lúc thật thà như đếm.

Thơ Huy Cận đạt tới nghệ thuật cao, phục vụ hai đề tài chính : vũ trụ và tình người, bàng bạc từ Lửa Thiêng. Về sau, hai chủ đề này sẽ đậm nét và cụ thể hơn. Ngày nay, không còn ai phân biệt hình thức và nội dung. Nhưng về mặt giải mã ta vẫn có thể nói : ở Lửa Thiêng nội dung phục vụ hình thức, sau Lửa Thiêng, ngôn ngữ phục vụ ý tưởng. Nhưng dĩ nhiên, đây là cách nói, vì trong thơ hình thức và nội dung là một.

Các bạn thơ hiện nay, phân biệt thơ Việt Nam đang thịnh hành, làm hai dòng. Dòng thơ cũ gọi là « dòng nghĩa » quan tâm đến ý nghĩa, tình ý chứa đựng trong lời thơ. Và dòng mới gọi là « dòng chữ » đặt trọng tâm vào vỏ ngữ âm và từ dạng. Thơ Huy Cận thuộc vào « dòng nghĩa » nhưng vẫn mới mẻ, nhờ ý thức nghệ thuật cởi mở và sáng suốt, thường xuyên tiếp cận với thơ nước ngoài.

Đặc tính trong thơ Huy Cận là chất trí tuệ, giọng lừng khừng triết lý tạo ra cảm giác ưu tư. Trước kia là trí thức, dành cho một thiểu số độc giả chọn lọc ; bây giờ là trí tuệ, mở rộng cho đa số, gồm có các cháu thiếu nhi.
Chủ đề vũ trụ trước sau nhất quán ; trước kia là niềm rung cảm trước vô biên, sau này là tư duy về sự sống.
Chủ đề tình người trước sau như nhất, xưa kia là trữ tình, bây giờ thêm tính giáo dục trên nền tảng nhân đạo.

Do đó thi pháp Huy Cận có uyển chuyển theo từng giai đoạn, nhưng trước sau vẫn nhất khí.

*

Huy Cận là tên thật, họ Cù. Sinh năm 1919, không rõ ngày. Tư liệu hiện nay ghi là 31 tháng 5 là dựa theo giấy khai sinh thiết lập khi anh vào trường huyện, đã 8 tuổi.

Sinh quán và chánh quán là làng Ân Phú, huyện Hương Sơn, nay thuộc về huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh, một làng trung du, tả ngạn sông Ngàn Sâu, dưới chân núi Mồng Gà cách đường xe lửa Nam Bắc khoảng 5 km. Tư liệu chính thức thường ghi : anh xuất thân từ một gia đình nhà nho, nghèo và yêu nước. Thật ra gia đình anh làm ruộng, khá giả và yêu nước ngang ngang với đa số gia đình Việt Nam khác. So với thế hệ, thì Huy Cận có học vị cao, sau học trình trung học tại trường Quốc Học Huế, anh tốt nghiệp Cao đẳng Nông Lâm tại Hà Nội, 1942. Thời học sinh đã nổi tiếng, có thơ đăng báo Ngày Nay của Tự Lực Văn Đoàn (1938). Thời sinh viên, năm 1940, anh cho in tập thơ Lửa Thiêng, Đời Nay xuất bản, Xuân Diệu đề tựa, Tô Ngọc Vân trình bày. Đây là đỉnh cao trong sự nghiệp văn học của nhà thơ Huy Cận.

*

Từ 1942, còn là sinh viên, Huy Cận đã tham gia mặt trận Việt Minh và bí mật xây dựng Đảng Dân Chủ. Tháng 7 năm 1945, anh được triệu tập tham dự Quốc Dân Đại Hội, ở Tân Trào, Thái Nguyên và được bầu vào Ủy Ban Dân Tộc Giải Phóng Toàn Quốc, gồm có 15 người, do Hồ Chí Minh làm chủ tịch. Đây là đỉnh cao trong sự nghiệp chính trị của chính khách Cù Huy Cận. Sau này anh sẽ đạt được nhiều danh vọng quang vinh khác, nhưng trong thâm tâm vẫn tự hào nhất về tập thơ Lửa Thiêng 1940, và hội nghị Tân Trào 1945, là nhà thơ, và chính khách trẻ tuổi nhất. Ủy ban Dân Tộc Giải Phóng sẽ mở rộng thành chính phủ Lâm Thời và Cù Huy Cận giữ chức Bộ Trưởng Canh Nông rồi cứ tiếp tục tham gia hội đồng chính phủ, thường thường với chức Thứ Trưởng rồi Bộ Trưởng Văn Hóa, từ 1984 đến 1987 – kiêm chủ tịch Ủy Ban Trung Ương Liên Hiệp các hội Văn Học Nghệ Thuật. Có người nói : Huy Cận đạt thành tích, giữ nhiệm chức chính phủ dài lâu nhất thế giới !

Về mặt bang giao quốc tế, Huy Cận là một nhân vật chủ chốt của chính quyền Việt Nam trong việc trao đổi văn hóa với các nước Á Phi và Âu Châu, anh là ủy viên hội đồng chấp hành Unesco, Ủy viên hội đồng Cao Cấp Tiếng Pháp (Francophonie) ; trong những cương vị ấy, anh thường xuyên đi ra nước ngoài và tranh thủ được nhiều cảm tình và viện trợ văn hóa cho Việt Nam.

*

Gió thổi sân trường chiều chủ nhật ;
Ôi thời thơ bé tuổi mười lăm

Huế 1936. Trường Quốc Học Khải Định. Huy Cận học lớp Nhất Niên, bắt đầu viết cho các báo Tràng An, Sông Hương của nhóm Hoài Thanh, dưới bút hiệu Hán Quỳ. Năm ấy, Xuân Diệu từ Hà Nội chuyển trường vào học lớp Tam Niên (lớp cuối bậc Tú Tài). Hai nhà thơ quan hệ thân thiết đến độ có người ngờ là luyến ái đồng tính. Nhất là khi Xuân Diệu viết « Tôi nhớ Rimbaud với Verlaine… » rồi bài thơ « Với bàn tay ấy ở trong tay… » đề tặng Huy Cận. Sau này Huy Cận kết hôn với em gái Xuân Diệu, về sau ly dị. Cùng học Khải Định thời đó, còn có giáo sư Nguyễn Khắc Hoạch, ca sĩ Minh Trang ; thầy của họ là Nguyễn huy Bảo, đã qua đời cách đây vài năm tại Paris. Ông Bảo kể lại rằng, 1938, Huy Cận đã được giải thưởng toàn Đông Dương (concours général) về Luận Pháp văn .

Huy Cận bắt đầu nổi tiếng từ Tết Mậu Dần 1938, khi báo Xuân Ngày Nay đăng bài Chiều Xưa (Buồn gieo theo gió veo hồ…) trong một khung báo cùng với bài Cảm Xúc (là thi sĩ nghĩa là ru với gió…) của Xuân Diệu. Việc có thơ đăng báo, dù là báo Xuân của Tự Lực Văn Đoàn, không lấy gì làm ghê gớm, nhưng Huy Cận rất đắc ý, và nhắc mãi. Bài Chiều Xưa làm năm 18 tuổi, là « đỉnh cao muôn trượng » trong nghệ thuật lục bát của Huy Cận, cùng với mấy bài cùng thời : Đẹp Xưa, Buồn Đêm Mưa, Ngậm Ngùi… Sau này thơ bảy chữ, tám thữ của anh vẫn còn nhiều bài hay. Riêng về nguồn lục bát trong thơ Huy Cận thì hoàn toàn nghèo đi. Đây là một chủ đề về thi pháp cần được nghiên cứu cặn kẽ, vì có tính cách lý thuyết.

Chiều Xưa gồm 5 cặp lục bát cách quãng :

Đồn xa quằn quại bóng cờ,
Phất phơ buồn tự thời xưa thổi về.

Ngàn năm sực tỉnh, lê thê
Trên thành son nhạt. – Chiều tê cúi đầu

Tôi nêu đôi điều ít người lưu tâm : « đồn xa » đây là đồn của Pháp đóng trên đèo Linh Cảm quê anh, nơi thực dân đã đốt xác Phan Đình Phùng, lấy tro nhồi vào thuốc súng và bắn ra biển. Phan Đình Phùng khởi nghĩa vùng quê Huy Cận, dân làng Ân Phú nhiều người là nghĩa quân. Vì vậy mới có hình ảnh «  quằn quại bóng cờ ». Và mới hiểu thấu đáo nỗi « buồn tự thời xưa thổi về » mà về sau Tố Hữu sẽ vay mượn để làm câu :
Đồn xa héo hắt cờ bay
Hiu hiu phất lại buồn vây vây lòng

(Tiếng hát đi Đày, 1942)

Nhưng hiểu là mang mang thiên cổ sầu, một cách chung chung cũng không sai.

Hai câu tiếp theo là câu vắt, enjambement, về cú pháp, câu trước tràn xuống câu sau, rồi dừng lại giữa câu bằng một cái chấm, tiếp theo là cái gạch, bắt đầu một mệnh đề khác. Dấu chấm là ký hiệu cú pháp (văn phạm) dấu gạch là ký hiệu bút pháp (hay thi pháp), hai yếu tố đó đồng quy và nghệ thuật thơ Huy Cận, tinh vi, uyên bác. Kỹ thuật này, các nhà thơ Pháp vẫn sử dụng. Có lần tôi trích dẫn câu này, nhưng nhà in bỏ quên chấm-gạch, nhà văn họa sĩ Võ Đình đã viết thư nhắc nhở. Tôi có đưa thư cho Huy Cận xem, anh rất tâm đắc. Nhưng trong các văn bản lưu hành hiện nay, chỉ có gạch mà không có chấm. Trong tuyển tập mới nhất, Huy Cận – Đời và Thơ, câu thơ không chấm gạch gì ráo.

1939, Huy Cận đỗ Tú Tài, ra Hà Nội học Nông Lâm. Dạo chơi trên đê sông Hồng, miệt Chèm, Vẽ, nhìn cảnh «  bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài » anh đã cảm hứng làm bài thơ Tràng Giang được truyền tụng qua nhiều chế độ và thế hệ. Anh cho biết « Bài thơ cũng không chỉ do sông Hồng gợi cảm mà còn mang cảm xúc chung về những dòng sông khác của quê hương ». Anh đã làm lại bài thơ nhiều lần, dưới nhiều thể : lục bát, đường luật «  để có một Tràng Giang hoàn chỉnh, tôi đã sửa đi sửa lại 13 bản thảo » . Nhiều người biết bài này, nhưng có khi nhớ không đúng hai câu :

Nắng xuống, trời lên, sâu chót vót
Sông dài, trời rộng, – bến cô liêu

Giữa câu sau, có cái phẩy, rồi tiếp theo một gạch ngang. Ấn bản Đời Nay, 1940, cũng thiếu gạch ngang. Tôi dựa theo bản chép tay của Huy Cận, in tại Paris, 1983. Bản Đời Nay, bài Tràng Giang mang lời đề tặng Trần Khánh Giư. Bản Đời và Thơ, Hà Nội, 1999, bài Tràng Giang được xếp đầu tiên, vẫn còn ghi lời tặng Khái Hưng, bút hiệu của nhà văn lừng danh tên thật là Trần Dư, hay Khánh Giư, bị Việt Minh thủ tiêu năm 1947.
Huy Cận là người chung thủy. Những khi « nắng mưa là bệnh của trời » cho phép, tâm hồn anh có lúc ngời lên những ánh thủy chung kỳ lạ.

Một năm sau Tràng GiangLửa Thiêng, in xong tháng 11 năm 1940. Xuân Diệu đã xuất bản Thơ Thơ trước đó hai năm rồi tái bản, thời điểm này là giai đoạn lý tưởng của phong trào Thơ Mới. Nó đạt tới sự đồng thuận giữa nghệ thuật người viết đã chín muồi và sức tiếp thu của người đọc cũng nồng hậu, cho nên Lửa Thiêng đã được tiếp đón nhiệt tình.

Khó nói được rằng Huy Cận tài ba hơn các nhà thơ khác, nhưng anh đã bước vào lịch sử thơ ca vào những ngày Tiên tháng Phật.
Khó nói được là Lửa Thiêng hay hơn các thi phẩm khác nhưng nó đã tổng hợp được nhiều đặc sắc của phong trào Thơ Mới và đồng thời loại trừ được các vụng về thô tháp trước đó. Là một giá trị tổng hợp, Lửa Thiêng còn nâng cấp nền Thơ Mới vì bản chất trí tuệ và ý thức nghệ thuật của Huy Cận, như anh tự nhận định : « giọng điệu triết lý về cuộc đời, về con người, về vũ trụ của tôi » .

Theo thư tịch, thi phẩm thứ hai của Huy Cận là Vũ Trụ Ca, các thư mục đều có ghi 1942. Và tác phẩm cũng lừng danh, dù… chưa bao giờ được xuất bản ! Nằm trong dự tính của tác giả, nó bao gồm một số bài đăng rải rác trên các báo Thanh Nghị, Điện Tín…, nổi tiếng là bài Xuân Hành, rồi đến Áo Xuân, làm 1942, hơi thơ, nhịp thơ trầm hùng, khỏe mạnh, có âm hưởng những hoạt động chính trị.

Sau 1945, suốt thời kỳ chống Pháp, Huy Cận ít làm thơ, chỉ có Giữa Lòng Thế Kỷ, làm tháng 8-1946 – trước ngày Toàn Quốc Kháng chiến – là đọc được. Mãi đến 1958 – 18 năm sau Lửa Thiêng – mới có tập Trời Mỗi Ngày Lại Sáng, sau đợt đi thực tế lao động tại Hồng Gai – sau phong trào Nhân Văn Giai Phẩm. Nổi tiếng là Đoàn Thuyền Đánh Cá. Sau đó thì Huy Cận sáng tác và xuất bản dồn dập, khoảng 25 tập thơ. Đề tài đa dạng, phần nhiều do thời sự đòi hỏi : thơ chiến đấu, lao động, sản xuất, mà chính bản thân anh về sau, cũng có khi không tâm đắc.

Khi Huy Cận đề cập đến thiên nhiên, trời biển, vũ trụ, làng xóm, quê hương, kỷ niệm ấu thời, khi anh lừng khừng triết lý trong một thi pháp già dặn thì vẫn chinh phục người đọc công bình – nghĩa là không có thành kiến với người làm thơ quyền chức và tùy thời. Hai tập Hạt Lại Gieo (1984), Chim Làm Ra Gió (1989) có nhiều bài đáng ghi nhớ.

Huy Cận là người sáng suốt : những bài thơ tầm thường thì anh biết là tầm thường và rất khổ tâm khi các nhà phê bình mang ra ca ngợi. Có lần anh nói với tôi : « thơ dở như thế mà họ khen, làm người đọc thắc mắc : những câu không được khen thì còn dở đến chừng nào ».
Huy Cận tổng luận về mình : « Dòng thơ tôi luôn luôn nhất quán, đó là thơ của cuộc đời, của con người, lúc buồn nhất cũng không lạc vào thơ Loạn, thơ Điên. Trong thơ tôi, cảm xúc vũ trụ rất đậm nét, nhưng hòa quyện với cảm xúc về cuộc đời (…)
Con người là thành viên của xã hội loài người, nhưng cũng là thành viên của vũ trụ, của thiên nhiên. Bởi vậy trong mỗi con người còn có, nên có, phải có những cảm xúc vũ trụ » .

Đây là chân lý đơn giản và hiển nhiên, nhưng không phải ai cũng nghĩ ra ; và khi đã nghĩ ra thì không phải ai cũng có khả năng phát biểu. Người có quyền, có khi lại không nghĩ ra điều gì, và khi chợt nghĩ ra thì không dám sử dụng cái quyền phát biểu của mình.

Huy Cận là một tài năng lớn, đã có những đóng góp quan trọng cho phong trào Thơ Mới. Sau này, phần đóng góp của anh, về mặt nghệ thuật, dù từ tốn hơn vẫn đáng quý, dù nó khó được nhận ra trong đống vàng thau lẫn lộn. Và khó nhận ra hơn nữa, vì những thành kiến. Con người sống trên thành kiến. Nước nào cũng vậy. Riêng Việt Nam, lịch sử đã lạm phát rồi củng cố thành kiến. Với nhau, nói chuyện gì cũng khó ; nói về người nào đó, càng khó.

*

Sinh thời, Huy Cận mong sống tròn thế kỷ :

Gắng theo hết thế kỷ hai mươi

Nay thế kỷ mới đã lên 5, có thể nói vui, theo điệu hài hước của anh lúc sinh thời, là anh đã « vượt biên ». Huy Cận đã hoàn tất những nhiệm vụ lớn, mà anh đã tự gánh lấy, hay đời đã trao cho, như anh đã từng cầu mong :

Rồi một ngày kia giã cõi này
Xin cho gieo hết hạt trong tay

Và giờ đây anh đang phiêu diêu về Miền Lặng Lẽ. Có bờ xanh, có bãi vàng, nữa chứ !

Bãi biển cuối hè dần vắng lặng
Vô tâm biển vẫn đẹp tưng bừng
Mai đây ta vắng, đời không vắng
Vũ trụ điềm nhiên đẹp dửng dưng

Một chiếc linh hồn nhỏ, một không gian hồn hậu rất thơm tho, điềm nhiên tan vào vũ trụ đẹp dửng dưng.

Đẹp. -Và dửng dưng.

Đặng Tiến
Orléans, 25/2/2005

Catégories
Prose

Ngộ độc do ăn khoai mì (củ sắn,cassava)

Ngày 9 tháng 3 năm 2005,tại đảo Manibi, Phi líp pin, xảy ra một thảm kịch bi đát : 27 trẻ em chết vì ngộ độc do ăn khoai mì, 100 trẻ khác phải nằm nhà thương.

Khoa mì, hoặc củ sắn, tiếng Anh gọi là cassava, tiếng Pháp gọi là le manioc, bột khoai mì bán ở Âu Mỹ gọi là tapioca. Việt nam chúng ta hầu như ai cũng đã từng ăn khoai mì , còn gọi là củ sắn. Cây khoai mì trồng dễ dàng, ngay ở những đất khô cằn và mọc nhanh.. Những người Việt trung niên phần đông ý thức về những độc tính có thể có của khoai mì (củ sắn). Người ta thường biết rằng có loại củ ít độc (loại ngọt, sweet cassava, manioc sucré) có loại độc nhiều (đắng, manioc amer, bitter cassava), tùy cách chế biến có thể thay đổi độc tính, và phần đông đều đã từng nghe nói rằng đàn bà có bầu không nên ăn khoai mì, hoặc bịnh mới hồi phục (convalescence) tránh không nên ăn khoai mì.

Thật vậy chúng ta có lẽ đã quen thuộc với thức ăn dễ trồng , rẻ tiền này qua nhiều thế hệ, nhất là trong những năm thất mùa đói kém, mà hầu như ai cũng “ăn độn dài dài”.Củ sắn có chứa protein, tinh bột, vitamin A, B và C. Cây sắn thật ra phát xuất từ Brazil (Ba Tây), Nam Mỹ, do người Portugal đem về phổ biến kháp thế giới., trở thành món ăn hàng ngày cho chừng năm trăm triệu người ở Châu Phi, Châu Á và Châu Mỹ la tinh.

Ở Mỹ, sản phẩm từ khoai mì mà người Mỹ dùng đến là tapioca, mà tự điển dịch là tinh bột sắn. Tuy nhiên gần đậy, do giao thông trên thế giới càng ngày càng dễ dàng và do các cộng đồng Á châu và La tinh ở Hoa kỳ càng ngày càng đông, chợ bán đồ ăn càng ngày càng bán cassava là củ sắn tươi cho thân chủ thiểu số. Những giới trẻ Việt nam tại Mỹ có thể sẽ có cơ hội ăn các thức ăn làm bằng củ sắn càng ngày càng nhiều, do đó nên cảnh giác hơn về những khả năng ngộ độc để tránh xảy ra trường hợp đáng tiếc như ở Phi líp pin. Trong trường hợp Phi lip pin vừa nói, những trẻ nhỏ trong giờ ra chơi mua và ăn quà vặt bán ngoài đường và chia nhau ăn. Khoai mì các cháu ăn hình như là những miếng khoai mì tươi được chiên dầu và cách nấu ăn này giữ cyanide trong món ăn và gây ngộ độc.

Thật vậy độc tính của củ sắn (khoai mì) là do sự hiện diện một chất đường có cyanide (CN) (cyanoglucoside) tên là linamarin. Qua quá trình tiêu hóa, cyanoglucoside thải ra hydrogen cyanide (HCN) gây ngộ độc.Chỉ cần 0.5 đến 3 milligram cyanide cho mỗi ki lô cân nặng là có thể chết người (lethal dose : 0.5-3mg/kg of body weight). Bởi vậy một đứa trẻ chừng 20 pound ăn 100 gram củ sắn có chứa 5milligram cyanide là có thể chết được. Cyanide trong hai củ sắn đủ để làm chết người lớn.

Đáng để ý là sự hiện diện trong mủ củ sắn (plant latex) có những enzymes bẻ gảy nối giữa cyanide và đường , nghĩa là đem yếu tố độc cyanide ra khỏi linamarin. Ví dụ , nếu đem củ sắn ra bào (tức là làm sắn vỡ nát ra)(grating), ngâm nước ấm vài ngày thì linamarin sẽ được chia ra thành hai phần, phần khí có cyanide được bay đi và phần dường không độc còn lại ăn được. Cũng tương tự như vậy, những cách chế biến khác nhau như nướng (Tây Phi), cắt từng miếng nhỏ, phơi nắng một ngày, ủ bằng lá chuối bốn ngày, đem ra gọt các chất mốc, xong lại phơi nắng (sun drying and heap fermentation ở Ouganda) có thể cho những kết quả khàc nhau về nồng độ cyanide trong thức ăn, nhưng nói chung mất cả tuần.

Trong những xứ nghèo ở Châu Phi, người ta đang phổ biến một phương pháp đơn giản và nhanh chóng được mô tả trong tài liệu của tổ chức Lương Nông Liên Hiệp Quốc (FAO). Khoai mì được đem ra bào nát , xong ngâm nước bốn tiếng đồng hồ, dùng lá làm phểu nhét cho khoai mì vắt nước có chất độc bỏ đi, xong đem phơi nắng, tất cả chỉ thực hiện trong vòng một ngày là có bột củ khoai mì (sắn ) ăn được. Theo tài liệu của Cơ quan Kiểm tra Thực Phẩm Canada, loại sắn ngọt (cassava doux) có dưới 50mg cyanide trong 1 kilô sắn tươi, nếu được nấu chin thì có thể hạ chất cyanide xuống mức xem như là an toàn.Trái lại, lọai sắn đắng (cassava amer) có cyanide nhiều hơn, cần phải bào (raper/grate), ngâm nước lâu để nhả các chất độc bớt lại. Thực tế đối với người ở Mỹ, có lẻ chúng ta nên nấu khoai mì cho kỷ , bỏ nước luộc khoai, không ăn khoai mì đắng và chỉ ăn ít cho vui thôi, nhất là đàn bà có bầu và trẻ em nên tránh nếu không chắc chắn an toàn.

Ở Châu Phi, ngộ độc cấp tính do củ sắn được gọi là Konzo (tiếng Zaire có nghĩa là “cột chân”/tied legs), người bịnh bị liệt hai chân và không chữa được, do ngộ độc cyanide.Những triệu chứng khác là mắt mờ (blurred vision), điếc tai , yếu , đi đứng khó khăn. Những người bịnh bị ngộ độc liều thấp hơn , mản tính gọi là bịnh thần kinh mất thăng bằng nhiệt đới (Tropical Ataxic Neuropathy).

Chúng tôi xin thu nhặt những dữ kiện trên để người Việt, nhất là người Việt từng xa xứ lâu ngày, ý thức về những biến chứng ngộ độc có thể xảy . Càng ngày chúng ta càng tìm đến những món ăn “đặc sản’ từ VN như khoai mì (củ sắn, cassava), măng tre tươi (cũng chứa cyanide, cần luộc chin mới ăn được), nấm, hoặc những món lạ hơn.Chúng ta phải biết chế biến nấu ăn, đúng cách và dùng có giới hạn vì như bài học các trẻ em Philippines, những món ăn truyền thống, đầy tính cách quê hương (đối với dân Phi hoặc VN ) đôi ghi vẫn gây tai nạn như thường.

Hồ văn Hiền
Great Falls , ngày 10 tháng 3 năm 2005