Hồ Bạc 9-9-2013 (Thân Tặng Curt W Kieser) Ba chiếc thuyền đơn lượn giữa hồ Núi rừng xanh thẳm một màu tô Kìa đôi vịt xám vầy nước mát Nọ chú rùa đen tắm nắng khô Mây tím lang thang bầu thế giới Trời xanh vắng lặng cõi hư vô Gió thu thoáng thổi lung linh lá Lấp lánh muôn hoa sóng bạc phô KT Thị trấn Dingman’s Ferry, Tiểu bang Pennsylvania Silver Lake (Dedicated to Curt W Kieser) The three of us are kayaking happily on the lake, The hills surrounding us with their green wooded make. A couple of noisy mergansers are playing hide and seek While a dark turtle bathes lazily in the sun, mild and meek. Against the blue canopy covering the whole serene sky Light dark gloomy clouds slowly and aimlessly fly. Over the calm water, an autumn zephyr blows, fresh and cool Glittering thousands of tiny flowers on the silvery pool Translated by the author 9 September 2013 Dingman’s Ferry, Pennsylvania Viếng Tràm Chim (2-3-2013) Một chiếc thuyền con lướt giữa đồng Bao người nô nức ngóng tìm trông Rừng tràm thấp thoáng mờ sương khói Đồng cỏ xanh mơn lộng gió sông Một dãy cò bông khoe cánh trắng Ba con sếu đỏ tỏ tình nồng Bước chân lãng tử về quê cũ Hoa nở Tràm Chim rộ cả lòng KT From Laos 10-2007 Dear Friends, Yesterday I arrived in Vientiane at 8.45am. It took me 2 hours and 30 dollars to get through Lao customs. In the evening, I went along with Dung and his wife Vieng, to the 50th birthday party of a relative – a quite unique event – with tons of flowers, Korean barbeques and lots of lao fairies. We had a really good time drinking and laughing over my lao speaking full of bungles and blunders. hôm nay bờm trở về quê quê bờm là xứ mộng mơ ngàn đời quê bờm rộn rã nụ cười những cô thôn nữ lả lơi giữa trời quê bờm nắng rực sáng ngời nắng vàng hực lửa bốc hời tình quê người ta sống rất say mê tuy nghèo nhưng vẫn không chê cuộc đời chào nhau tay chắp miệng cười đầu hơi cúi xuống nói lời tốt tươi chào nhau rất thắm tình người chào nhau như thể muôn đời biết nhau chào nhau là để tìm cầu ngàn xưa bóng dáng nhiệm mầu chính ta chào nhau là thấy thích ca tận cùng tâm khảm của ta đó mà chào nhau là mở đóa hoa ẩn sau xương thịt làn da của mình chào nhau thắm thiết chân tình bởi vì ta thấy bóng hình chính ta kim cương đọc tụng ngâm nga hơn ba trăm biến nghĩa xa mịt mờ về quê xưa cũ nào ngờ lời chào khơi dậy đóa hoa trong lòng 1.10.2007 From CQH with love _ ° _ ° _ I copied below the second episode of my Grand Tour to Australia. Hope you enjoyed it. From KT with love Hốc môn Đêm Hốc môn vô tận Bên bình rượu tràn lan Nông lâm ba mươi bạn Quanh bàn tiệc quây quần Không ngớt tiếng cười vang Nói chuyện thật rộn ràng Kéo dài cho đến sáng Như thể là bắp rang Một anh đọc bài thơ Kể nỗi niềm thương nhớ Đêm hội ngộ năm nào Tình bạn đẹp xiết bao Một chị say sưa hát Khi trầm khi cao ngất Lời nhạc Trịnh như ru Đưa ta vào cơn ngủ Và giấc mộng vô thường Xin làm kiếp tha phương Của loài chim viễn xứ Không một nơi trú ngụ Suốt cả đời lãng du Từ vùng đất mây mù Đến khung trời ủ rũ Hay ốc đảo giá băng Trên trùng dương vắng lặng _ ° _ ° _ Our next stop is a small village in the vicinity of Can Tho. Hope you enjoy the versified episode. Tân qưới Bình minh trên Tân qưới Nhuộm đỏ cả bầu trời Con sơn ca sởi lởi Lưỡi líu lo chào mời Cánh đồng xanh mướt lúa Hứa hẹn sẽ được mùa Nương khoai lang óng ả Đang kết nhánh trổ hoa Trên con kênh mầu mở Con thuyền nhỏ lắc lư Đoàn người đi hái táo Nhắm thẳng cổng bước vào Bắt đầu một ngày mới Theo nhịp đập đất trời Nhóm người ngồi lựa táo Thoăn thoắt đổ táo vào Rồi lựa thành ba hạng Lớn trung và táo đạn Nhưng loại bỏ táo vàng Và những trái bị nám Hoặc đã bị sâu ăn Xếp riêng thành một đám Ngoài vườn cây xanh lá Trái trĩu nặng la đà Lấn giữa những chùm hoa Gai sao mà nhiều quá Tay không ngừng hái trái Mà lắm chuyện vào tai Như là chuyện cô gái Bỏ làng đi theo trai Ở mãi tận nước ngoài Gặp lắm điều oan trái Đành khăn gói trở về Sống tủi hổ ê chề Ở ngoài lề xã hội Cuộc đời bạc như vôi Đôi lúc muốn bật cười Nhưng lại ra nước mắt Là được hay là mất Tùy cách nhìn mà thôi _ ° _ ° _ From Halong Bay, we went to Monkey Island to see the Cat Ba langur, This is a species of monkeys that are nearly extinct due to various ecological reasons but also due to the extensive poaching for their much prised so-called rejuvenating effects. According to http://www.catbalangur.org/Langur.htm As indicated by this species former name (the Golden-headed langur), head and neck down to the shoulders are bright golden to yellowish-white, with the head and the crest being most brightly coloured. The rump and the extremities of adult males and females of the Cat Ba langur are covered by dark chocolate brown, almost black fur. A grey band runs from the thighs to the back, forming a V-shape above the tail root and long hair of the back forms a shoulder cape. Another prominent feature of all Trachypithecus langurs is their long tail. Its length clearly exceeds head-body length. Unfortunately, we didn’t get to see any of these wonderful creatures. Đảo Khỉ Trong quần đảo Cát bà Cách Hạ long không xa Có giống voọc đầu vàng Xếp vào hàng linh trưởng Thuộc loài khỉ quý hiếm Bậc nhất trên trần gian Voọc đang gặp nguy hiểm Bị tuyệt chủng hoàn toàn Mất cân bằng sinh thái Nên thiếu chỗ sinh nhai Và vô phương tồn tại Thật là điều tai hại Cả thế giới đi tìm Trong hang sâu rừng rậm Rất vất vả gian nan Lên kế hoạch mưu toan Bảo vệ cả khu rừng Và dải cát mênh mông Để cứu loài linh trưởng Thoát khỏi cảnh tan xương Nhưng các bậc đại gia Trong thành đô tráng lệ Bỏ tiền mua voọc về Lọc xương bỏ thịt da Nấu thành cao đại bổ Ôi thật là xấu hổ Giới quý tộc xứ ta Chẳng một chút xót xa _ ° _ ° _ From Monkey Island we went to Cat Ba Island for accommodation. Unfortunately, the looming storm in the following morning spoiled our plan and we were forced to get back to Hanoi as soon as possible. Cát bà Xưa nhà ta họ Mạc Nương náu ở đảo này Sau đổi ra thành Cát Ý là để cầu may Thay tên và đổi họ Nơi gà gáy khỉ ho Để đánh lạc quân thù Hoặc những tên sát thủ Trở về miền đất tổ Trăm mối rối tơ vò Một nét xưa chẳng nhớ Lòng nghĩ tưởng vu vơ _ ° _ ° _ Some of you might be inquisitive about us. I suppose it’s high time we introduce ourselves. First of all, the indisputable leader of the expedition, Russell is an expert in ornithology with more than 60-year experience in birdwatching, spotting over 4000 different species of birds world wide. He has travelled extensively around the world to discover rare and new birds. He’s the soul and the main driving force behind the odyssey and is also the main financial contributor to the expedition. For those who are familiar with the Journey to the West, or Tây Du Ký in Vietnamese, in a way he’s similar to Tripitaka, Russell Hơn sáu mươi năm mỏi mắt nhìn Bốn ngàn có lẻ các loài chim Rừng rậm Phi Châu nào mỏi gối Sông hồ Châu Mỹ vẫn luôn tìm Kho sách chất cao trong khối óc Bảo tàng dấu kỹ tận con tim Tấm lòng son sắt yêu cầm thú Chẳng có mấy ai khắp cổ kim For more than 60 years he’s been travelling Over 4000 bird species he’s been spotting Braving tirelessly the dense forests of Africas Passionately, exploring lakes and rivers of Americas A library stacks up in his brains A hidden treasure flows through his veins His eternally burning love of nature has no equal From current days up to time immemorial For those who don’t know who the heck Bờm is, I strongly suggest you harass Dr X for the information. Bờm Ta nhớ ngày xưa thủa thiếu thời Vẫn hằng mơ tưởng đến muôn nơi Hai dòng máu chảy lòng chẳng thoái Ba nước trong tim vẫn nhớ hoài Một bước đường đời ngàn học hỏi Trăm năm mở rộng bốn phương trời Sa mạc ngàn trùng ta quyết tới Núi đồi hoa dại cảnh tuyệt vời Hương Em mãi là Hương của tiếng cười Ngàn năm ròn rã mãi không thôi Vòng tay mở rộng lòng chẳng hối Tung cánh chim bay khắp muôn nơi Kết giao bè bạn hàng trăm mối Gìn giữ thiên nhiên quyết một lời Hoạt động cho đời nào biết mỏi Tràm chim tiếng hạc gáy lưng trời She is the true embodiment of eternal laughter Since the beginning of time till millennia thereafter She opens widely her heart to friends with no regret She travels extensibly like the grand egret She weaves the hundred-thread yarns of friendship With nature she nurtures an everlasting relationship Without rest she works for the community passionately In Tram Chim, Saurus cranes call each other affectionately _ ° _ ° _ Before flying back to Hochiminh City, we made a 5-day detour to Laos to visit Luang Prabang. Luang Prabang Luang Prabang huyền ảo Cố đô của nước Lào Nhà vua không còn nữa Chỉ xót lại thành xưa Ngày nay thành nổi danh Cổ kính nết đan thanh Đạo Phật rất thịnh hành Dân đua làm điều lành Việc giữ thì xa lánh Nên nếp sống thanh nhàn Cảnh đẹp như trong tranh Chùa nhiều và hoành tráng Không sao nói lên lời Được hội đồng thế giới Bầu di sản loài người Nhằm bảo vệ muôn đời From Luang Prabang we cruised the Mekong to visit Tham Ting Caves. It’s about an hour by boat from LPB, for westerners it’s commonly known as Pak Ou Caves, which means caves at the mouth of the Ou River ; however, to the locals it’s known as Tham Ting Caves, meaning caves of thousands buddhas. Động Thặm Tình Trên dòng sông Mê Kông Những con thuyền lướt sóng Đưa đoàn người thăm động Háo hức trọn một lòng Lũ lượt thật là đông Dòng nước sông mênh mông Con thuyền chạy song song Khách vẫy tay chào khống Những ngôi nhà ven sông Mỏi mòn mắt xa trông Có hòn đảo giữa dòng Cỏ rối tựa bòng bong Cửa sông Ù đã tới Làng Pạc Ụ đây rồi Cô hàng lụa chào mời Miệng cô cười thật tươi Mắt tình tứ có đuôi Khách nhìn cô đắm đuối Muốn nói chẳng lên lời Lụa cô đã trao rồi Mà khách chẳng muốn rời Cô lấy rượu rót mời Khách càng thêm bối rối Nhấp ly rượu trên môi Uống mãi nhưng chẳng rồi Điệu này chắc đến tối Bác lái tàu gọi với Đành phải từ giã thôi Phía bên kia là động Ngăn cách chỉ dòng sông Thuyền khởi hành lướt sóng Chẳng mấy chốc qua dòng Bậc đá lượn một vòng Đã tới ngay cửa động Bên trong cũng khá rộng Những tượng phật rất đông Bày chật cả căn phòng Khoảng độ mấy ngàn ông Có tượng phật đứng thẳng Hai tay duỗi ngang hông Việc này có nghĩa rằng Đang nắng cầu mưa giông Hoặc có vị phật khác Trong tư thế đứng thẳng Hai tay giơ phía trước Phật muốn nhắn nhủ rằng Hãy từ bỏ chiến tranh Để mua lấy an lành Lại có vị phật khác Cũng tư thế đứng không Tay trái duỗi ngang hông Tay phải xòe ra trước Vị này muốn nói rằng Muốn xóa bỏ thù hằn Phải làm lành nuốt giận Phép bậc nhất thế gian Không có gì hơn Nhẫn Có phật ngồi xếp bằng Trong tư thế hoa sen Chân phải gác vế trái Lòng bàn tay hướng trời Đi sâu vào thiền định Phật khéo nhắn chúng sinh Muốn thoát khỏi vô minh Nhắm cứu độ cho mình Và các loại hữu tình Thiền là phương pháp chính Mỗi vị phật như thế Thật là nhiều vô kể Đều nói lên bài kệ Chỉ rõ nghĩa tứ đế Bằng ngôn ngữ không lời Qua cử chỉ mà thôi Lời phật như mưa rơi Rải đều xuống trên đời Thấm nhuần khắp mọi nơi Chẳng chổ nào không tới Người thì hiểu thật nhiều Người chẳng hiểu bao nhiêu Lời phật tuy rất đều Tâm chúng sinh lại thiếu _ ° _ ° _ From : Quang Cat To : Soeur Catherine Dear Soeur Catherine, I’m writing this open letter to you, hoping it will reach you through the circuitous meandering of the Internet. Perhaps you don’t remember me, but I remember you vividly. I can imagine you must have thousands of students in your professional career. They come to you to seek knowledge and eventually they all disappear to live their own life. I got the honour of being one of those students of yours some forty years ago. At the Royal Ballet show, by an amazing twist of fortune, I ran into you. Though our encounter was rather brief, I was mesmerised by your charisma, passion and immense compassion for all the orphans, the blinds and the people who failed miserably. I was fascinated by your incessant fight to win a decent place for the under-privileged. I asked you why you would bother to carry on fighting and why you achieved so much with so little means at your elderly age. These are your responses: My heart failed a long time ago and I was pronounced dead by all the smart doctors of the world. But then God gave me a new heart so I’ll fight on till the battery runs out. As to why I managed to build these big premises for the poor, well, my dear, it’s love nurtured by compassion. Thank you,dear Soeur Catherine, for teaching me all those remote years and for giving me your latest and recent lesson of love. Respectfully yours, KT Cát Quang Huy 22 October 2009 Sơ Catherine Bao năm rồi không gặp Dịu hiền trong ánh mắt Giọng nói vẫn say sưa Tiếng cười dòn vang vọng Trái tim thật mênh mông Bàn tay không mệt mỏi Xoa dịu khắp mọi người Từ những trẻ mồ côi Đến những người tăm tối Cả những gả hủi cùi Bị mọi người xua đuổi Lẫn những phường móc túi Sống góc phố tanh hôi Và những kẻ đứng đường Đi ăn mày tình thương Tất cả những người này Sơ một lòng bác ái Không phân biệt phải trái Nào kể đến gái trai Sơ là sứ giả trời Biệt phái xuống cỏi đời Mang nắng ấm thiên đàng Mà sưởi khắp thế gian _ ° _ ° _ Sam, the host of Merry Guest House, the place where we sayed in LPB, took us to a remote school up the hill. Hope you enjoy the following episode. From KT with love Trường làng Ở chóp đồi cheo leo Có ngôi trường rất nghèo Mái nhà tôn méo xẹo Cánh cửa gỗ cong queo Khẳng khiu những cột kèo Giằng đòn tay lệch méo Số kiếp học trò nghèo Học hành cũng lỏng lẻo Thân thể đẹt tong teo Trí khôn thì bé tẹo Chẳng còn sức muốn leo Để thoát khỏi kiếp nghèo Trong cộng đồng thế giới Cùng sống ở trên đời Trách nhiệm ở mọi người Phải diệt ngu xóa đói Chúng ta cùng thay đổi Đem nắng ấm khắp nơi Để mang lại tiếng cười Cho trẻ thơ vô tội _ ° _ ° _ We visited the former Royal Palace, now the National Museum. Located right next to the Mekong River, the Palace is mixture of traditional Lao motifs and French style. It was built by the French from 1904 to 1909, under the rule of King Sisavang Vong. Hoàng cung Trên dòng sông Mê Kông Dưới đời vua Vang Vông Pháp xây ngôi hoàng cung Trên khu đất mênh mông Nhìn thẳng xuống dòng sông Năm năm mới làm xong Bắt đầu từ cổng chính Lối vào rộng thênh thang Thốt nốt mọc hai hàng Cung vua tường màu trắng Mái có bảo tháp vàng Ở trong phòng tiếp tân Có treo tranh Thit Tan Kể chuyện vị quân vương Rama đầy anh dũng Có vợ là Sita Bị vua xứ Lanka Dùng qủy kế tinh ma Bắt cóc về xứ lạ Lòng Sita băng giá Khiến quân gian chột dạ Chẳng dám đụng thân ngà Cuối cùng phải thả ra Trong hoang cung còn có Tặng phẩm nhỏ và to Những quốc khách đến viếng Gọi là để làm duyên Quý giá nhất hoàng thành Là pho tượng Pra Bang Làm bằng bạc và vàng Nặng độ năm chục cân Cao gần bằng một thước Hai bàn tay đưa trước Phật muôn nhắn nhủ ràng Hãy chấm đứt chiến tranh Để mang lại an lành Hung tàn nên xa lánh Việc thiện nên cố gắng Cội rễ của thanh nhàn. |
Catégorie : Thơ
Đổi cả thiên thu tiếng Mẹ cười
Nhấc chiếc phone lên bỗng lặng người
Tiếng ai như tiếng lá thu rơi
Mười năm mẹ nhỉ, mười năm lẻ
Chỉ biết âm thầm thương nhớ thôi
Buổi ấy con đi chẳng hẹn thề
Ngựa rừng xưa lạc dấu sơn khê
Mười năm tóc mẹ màu tang trắng
Trắng cả lòng con lúc nghĩ về
Mẹ vẫn ngồi đan một nỗi buồn
Bên đời gió tạt với mưa tuôn
Con đi góp lá nghìn phương lại
Ðốt lửa cho đời tan khói sương
Tiếng mẹ nghe như tiếng nghẹn ngào
Tiếng Người hay chỉ tiếng chiêm bao
Mẹ xa xôi quá làm sao vói
Biết đến bao giờ trông thấy nhau
Ðừng khóc mẹ ơi hãy ráng chờ
Ngậm ngùi con sẽ dấu trong thơ
Ðau thương con viết vào trong lá
Hơi ấm con tìm trong giấc mơ
Nhấc chiếc phone lên bỗng lặng người
Giọng buồn hơn cả tiếng mưa rơi
Ví mà tôi đổi thời gian được
Ðổi cả thiên thu tiếng mẹ cười.
Trần Trung Ðạo
.
Bài thơ được Võ Tá Hân phổ nhạc
Xin mời các bạn nghe qua tiếng hát Khánh Lan và giọng ngâm Trần Trung Đạo :
http://www.trantrungdao.com/me/ttdthome10.htm
.
Qua mấy ngõ hoa
Chim vỗ cánh nắng phai rồi đó
Về đi thôi o nớ chiều rồi
Ngó làm chi mây trắng xa xôi
Mắt buồn quá chao ơi là tội.
Tay nhớ ai mà tay bối rối
Áo thương ai áo lộng đôi tà
Ðường về nhà qua mấy ngõ hoa
Chớ nên liếc mắt nhìn ong bướm
Có chi mô mà chân luống cuống
Cứ tà tà ta bước song đôi
Ði một mình tim sẽ mồ côi
Tóc sẽ rối đường ngôi không đẹp
Tóc có rối cần chi phải kẹp
Nắng sẽ chia nghìn sợi tơ huyền
Buộc hồn o vào những cánh chim
Bay lên đỉnh hồn anh ngủ đậu.
Cứ mím môi rứa là rất xấu
O cười tươi duyên dáng đa tình
Cho anh nhìn từng chiếc răng xinh
Anh sẽ đổi ngàn ngày thơ dại
Mi khẽ chớp nghĩa là sắp háy
Hãy nguýt đi giận dỗi càng vui
Gót chân đi gót mộng bồi hồi
Anh chợt thấy trần gian quá chật
Không ngó anh răng nhìn xuống đất
Ðất có chi đẹp đẽ mô tề
Theo nhau từ hôm nớ hôm tê
Anh hỏi mãi răng o không nói
Tình im lặng tình cao vời vợi
Hay nói ra sợ dế giun cười
Sợ phố ghen đổ lá me rơi
Sợ chân bước sai hồi tim nhịp
Cứ khoan thai rồi ra cũng kịp
Vạn mùa xuân chờ ở chung quanh
Vạn buổi chiều mộng ước mong manh
Vẫn theo o về giờ tan học
Từ bốn cửa đông tây nam bắc
Ðến bốn mùa xuân hạ thu đông
Theo nhau về như sáo sang sông
Như chuồn chuồn có đôi có cặp
Chim chìa vôi chuyền cành múa hót
Trên hư không ve hát mùa hè
O có nghe suốt dọc đường về
Sỏi đá gọi tên người yêu dấu
Hoa tầm xuân tím hoang bờ dậu
Lòng anh buồn chi lạ rứa thê
Nón nghiêng vành nắng chết đê mê
Anh mê sảng theo chiều tắt chậm
Chiều đang say vì tình chưa ngấm
Hai hàng cây thương nhớ một người
Chiều ni về o thương nhớ ai
Chiều ni về chắc anh nhuốm bệnh
Thuyền xuôi dòng ngẩn ngơ những bến
Anh như là phố đứng trong mưa
Anh như lá quế nhớ trầm xưa
Sợ một mai o qua mất bóng
Một mai rồi tháng năm sẽ lớn
O nguôi quên những tháng trời hồng
O sẽ quên có một người mong
Một người đứng dọc trời trông đợi
Còn nhớ chi ngôi trường con gái
Lớp học sau ô cửa giờ chơi
Cặp sách quăng mô nớ mất rồi
Vì o bận tay bồng tay bế
Chuyện hôm nay sẽ thành chuyện kể
Những lúc chiều theo nắng qua sông
O bâng khuâng nhè nhẹ hỏi lòng
O nhớ ai răng buồn chi lạ
Chim vỗ cánh nắng phai rồi đó
Về đi thôi o nớ chiều rồi
Ngó làm chi mây trắng xa xôi
Mắt buồn quá chao ơi là tội.
Mường Mán
Giòng Sông Tuổi Nhỏ
Cho sông Hàn của tuổi 15 …
Có những giòng sông mang nhiều niềm nhớ
Những giòng sông của tuổi nhỏ thơ ngây
Rồi sông chia thành những nhánh hao gầy
Như thơ ngây rụng dần theo ngày tháng Nhưng sông xưa không trôi vào quên lãng
Vì yêu thương đã trú ẩn trong hồn
Dù tình xưa giờ đã thành dĩ vãng
Kỷ niệm buồn ray rứt nỗi cô đơn Tôi trở lại bên giòng sông tuổi nhỏ
Nhưng thơ ngây đã vổ cánh bay rồi
Giờ còn đây lung linh khi mờ tỏ
Giọt nắng vàng run nhẹ đậu trên môi Sông còn đây nhưng chia ra nhiều nhánh
Như hồn tôi lưu lạc thuở yêu người
Trở về đây nhưng tình đã xa xôi
Tôi lặng ngắm buồn rơi trên sông cũ.
Tôn nữ Thanh Thanh (BP60)
Cố Hương – Milly ou La terre natale
Pourquoi le prononcer ce nom de la patrie ? Dans son brillant exil* mon cœur en a frémi, Il résonne de loin dans mon âme attendrie, Comme les pas connus ou la voix d’un ami. Montagnes que voilait le brouillard de l’automne, Vallons que tapissait le givre du matin, Saules dont l’émondeur effeuillait la couronne, Vieilles tours que le soir dorait dans le lointain. Murs noircis par les ans, coteaux, sentier rapide, Fontaine où les pasteurs accroupis tour à tour Attendaient goutte à goutte une eau rare et limpide, Et, leur urne à la main, s’entretenaient du jour. Chaumière où du foyer étincelait la flamme, Toit que le pèlerin aimait à voir fumer, Objets inanimés, avez-vous donc une âme Qui s’attache à notre âme et la force d’aimer ? Lamartine (1790 – 1869) * Le poète était diplomate, en poste en Italie -°-°-°-°- Cố Hương Nhắc làm chi quê hương hai tiếng ấy Trong lưu đày rạng rỡ*, dạ xôn xao, Âm vọng xa ngân trong lòng dịu lắng, Bước chân quen, lời bạn giọng nao nao. Ôi núi cao sương thu che lãng đãng, Ôi lũng sâu giá sớm lấp hừng đông Rặng liễu uy nghi kìa ai tỉa lá , Ôi tháp xưa chiều loáng ánh mây hồng. Tường xạm thời gian, đồi cao, lối dốc, Vòi nước chung, đám mục tử ngồi chờ Đợi hứng giọt nước trong, từng giọt quý Hũ cầm tay cùng nói chuyện vu vơ. Mái rạ nhà ai bếp hồng ánh lửa, Khói lam chiều mòn mỏi mắt tha hương, Vật vô tri, có linh hồn chăng nhỉ , Quyện hồn ta cùng mãnh lực yêu thương ? Đặng Tiến dịch 30/3/2007 |
Ông Đồ và Thơ họa
Ông Đồ Mỗi năm hoa đào nở Lại thấy Ông Đồ già Bày mực tàu giấy đỏ Bên phố đông người qua. Bao nhiêu người thuê viết Tắm tắc ngợi khen tài “Hoa tay thảo những nét, Như phượng múa rồng bay”! Nhưng mỗi năm mỗi vắng Người thuê viết nay đâu ? Giấy đỏ buồn không thắm Mực đọng trong nghiên sầu… Ông Đồ vẫn ngồi đấy Qua đường không ai hay Lá vàng rơi trên giấy Ngoài trời mưa bụi bay. Năm nay đào lại nở Không thấy Ông Đồ xưa Những người bao năm cũ Hồn ở đâu bây giờ? Vũ Đình Liên *** Lưu Luyến (Đáp hộ Ông Đồ) Ngày xưa hoa đào nở Ta không ngại tuổi già Ngồi viết câu đối đỏ Khi có người ghé qua. Chữ đẹp vì hay viết Người thương lại khen tài Dọc ngang theo từng nét Ta để tâm hồn bay. Mỗi năm đường phố vắng Người thuê chẳng thấy đâu Bút chờ bên giấy thắm Ta ngó dạ vương sầu. Thánh hiền chữ còn đấy Đạo lý tuyệt vời hay Buồn thay như tờ giấy Quốc hồn theo gió bay. Ngày nay hoa đào nở Không còn hình ảnh xưa Hồn ta nơi phố cũ Lưu luyến tự bao giờ! Hồ Mộng Thiệp Xuân Quý Hợi 1983 |
Bùi Giáng Nguồn Xuân
Đặng Tiến
Hôm mùng ba mùng bốn theo nhau đẩy lùi mồng một mồng hai của hôm nay Nguyên Đán (Mưa Nguồn, tr. 164)
Câu thơ văn xuôi này của Bùi Giáng mang hai đặc tính : một là ý nghĩa nói về ngày Tết và mùa Xuân, hai là chữ nghĩa đi ngược chiều thời gian. Dĩ nhiên là mồng ba đẩy lùi mồng hai ; mồng hai đẩy lùi mồng một. Như vậy hôm nay Nguyên Đán nằm ở vị trí nào trên chuỗi tháng ngày ? Nói khác đi, Bùi Giáng đứng từ thời điểm nào ở đầu tháng giêng để phát ngôn ?
Lời thơ theo trật tự số mục, và lối đếm thông thường : mùng một, mùng hai … mùng ba, mùng bốn … Nhưng theo ý nghĩa câu thơ, thì phải nói ngược lại : mùng bốn mùng ba (sẽ) theo nhau đẩy lùi mồng hai mồng một. Như vậy, nhà thơ phát ngôn từ ngày hôm nay Nguyên Đán, như Nguyễn Bính năm 1940 : Năm mới tháng giêng mồng một Tết
Còn nguyên vẹn cả một trời Xuân
Nhưng nếu hiểu (đã) theo nhau, thì tác giả lên tiếng vào ngày mồng Năm. Va øtrong cả hai giả thuyết, trật tự chữ nghĩa trong câu thơ Bùi Giáng vẫn không thuận chiều.
Rối rắm như vậy để nói lên một điều cơ bản : thơ Bùi Giáng là một « dòng nước ngược » một tâm thức đi ngược chiều thời gian, trong một Sử Lịch, ngược dòng Lịch Sử.
Trong hàng vạn trang sách để lại, Bùi Giáng thường dùng từ Sử Lịch. Chỉ một lần dùng chữ Lịch sử để chối bỏ :
Sử Lịch phai trang
Chạy quàng
Là Lịch Sử
(Lá Hoa Cồn, tr. 55)
Xuân trong thơ Bùi Giáng là xuân không mùa, xuân duy nhất và tuyệt đối, mà ông gọi là Nguyên Xuân (Lá Hoa Cồn, tr. 26), là khởi thủy của nguồn sống, nguồn thơ, quê của Em Mọi, của Đười Ươi, đồng thời là đối tượng, là cứu cánh của sáng tạo, của Lời Cố Quận, Tiếng Gọi Về :
Thưa rằng ly biệt mai sau
Là trùng ngộ giữa hương màu Nguyên Xuân
(Mưa Nguồn, tr. 25)
Tác phẩm, và cuộc đời Bùi Giáng là niềm thủy chung trước sau như một với môït Màu Hoa Trên Ngàn : ông khởi đi từ đây và trở về lại đấy. Xuân là nguồn mạch thơ tuôn tuôn từ miền xa biệt :
Lỡ từ lạc bước chân ra
Chết tự sơ ngộ màu hoa trên ngàn
*
Mùa Xuân xuất hiện thường xuyên trong tập Mưa Nguồn, và tái hiện trong Lá Hoa Cồn, về sau chỉ thấp thoáng mỗi ngày một ít, ở những thi phẩm cuối đời.
Mưa Nguồn thi phẩm đầu tay và đều tay nhất của Bùi Giáng được in năm 1962, gồm có nhiều bài làm từ 1948. Lời thơ trong sáng, tươi thắm và tha thiết, vào tập bằng hai câu mào đầu :
Xin chào nhau giữa con đường
Mùa xuân phía trước, miên trường phía sau
là câu thơ nổi tiếng sớm nhất của Bùi Giáng, vì nó có thể được sử dụng ở nhiều tần số khác nhau : buồn hay vui, u hoài hay đùa cợt, ví dụ khi bè bạn gặp nhau ngoài phố, lặp lại câu thơ : xin chào nhau giữa con đường, dù không hiểu miên trường là gì.
Và ý tác giả có thể ngược lại : mùa xuân phía sau, miên trường phía trước. Cũng cần nói thêm, thời đó, 1962, thơ Bùi Giáng chỉ được truyền tụng trong một giới độc giả và bằng hữu, đồng hương, chứ không phải là một « hiện tượng văn học » như gần đây.
Có thể là thơ của tuổi xanh, nên tập Mưa Nguồn đã khởi đi từ nhiều hình ảnh thắm tươi, điệu thơ ánh ỏi :
Những nhành mai sớm sương bên lá Những nhành liễu chiều gió bên cây Cũng lay lất bởi đời xuân em ạ Thế nên chi anh cũng viết dòng này
(Những Nhành Mai, Mưa Nguồn, tr. 10)
Lời thơ tham dự với đất trời vào niềm hoan lạc của mùa xuân. Thể thơ cổ điển, nhưng tác giả đã trộn lẫn thơ bảy và tám chữ, với âm điệu lạ ở câu hai. Nhưng đặc sắc trong thơ Bùi Giáng, thời ấy là những hình ảnh tân kỳ, trong thể thơ truyền thống :
Tay lẩy bẩy níu gì xuân bay biến Ô thiều quang ! Làn nước cũ trôi mau Em đi lên vói bắt mấy hương màu Miền đất Thượng có mấy bờ hoa mọc Xa biệt lắm Mưa Nguồn trên mái tóc Đã mấy lần thổi lạc lệ lưa thưa
(Giã từ Đà Lạt,1958, Mưa Nguồn, tr. 94)
Lời thơ diễn tả niềm hoang mang trước thời gian, ý tưởng không mới, nhưng lối kết hợp ẩn dụ thì mới, so với lối thơ tám chữ trước đó. Ở Xuân Diệu, Huy Cận niềm ám ảnh của phôi pha không gây bất ngờ như với Ôi thiều quang ! làn nước cũ trôi mau…
Trần gian phôi pha, thời gian hủy diệt, nhưng nhà thơ chấp nhận quy luật, nên đã ghì siết hai tay, Nàng Thơ đẹp của trần gian ứa lệ :
Tôi đã nguyện yêu trần gian nguyên vẹn
Hết tâm hồn và hết cả da xương
(…)
Còn ở lại một ngày còn yêu mãi
Còn một đêm còn thở dưới trăng sao
Thì cành mộng còn tung lên không ngại
Níu trời xanh tay vói kiểng chân cao
Nhưng em hỡi trần gian ôi ta biết
Sẽ rồi ra vĩnh biệt với ngươi thôi
Ta chết lặng bó tay đầu lắc
Đài xiêu ôi xuân sắp rụng mất rồi
(Phụng Hiến, Mưa Nguồn, tr. 30)
Những bài thơ tin yêu cuộc sống, tươi sáng và thắm thiết như vậy ít khi thấy ở những tập thơ sau, mà cũng ít người nhắc đến. Âu cũng là một thiệt thòi cho ông. Chúng tôi trích dẫn một bài thơ xuân thắm tươi, có lẽ làm vào mùa xuân 1973, toàn văn :
Nắng Nguyên Đán
Chạy đi em, nắng gió bốn chân trời
Về chân đất dưới chân em mọc cỏ
Nắng Nguyên Đán lục lam hay hồng đỏ
Tía vi vu hồng lục cũng bao hàm
Chạy đi em ! sương gió nắng thênh thang
Trời đất đẹp từ bình minh vũ trụ
Nắng Nguyên Đán của nguyên xuân đầy đủ
Cỏ hoa hương chồi nhú lộc miên man
Nắng xuân xanh mở cỏ mọc hai hàng
Và riêng mở duy Một Hàng Ẩn Mật
Nắng phơ phất vì sắc hương phơ phất
Dưới khung trời mặt đất mở thênh thang
Chạy đi em, gót ngọc bỏ hai hàng.
(Bài Ca Quần Đảo, tr. 54)
Phong cách nhắc lại một bài thơ trước :
Chạy đi em, qua vườn thắm theo ngày
Cùng với phút giây này phơi mở lá
Em ngó nhé cành xanh cây giục giã
Hoa nghiêng đầu ríu rít cạnh chim kêu …
(Mưa Nguồn, tr. 96)
Nhưng nhịp thơ nhanh, âm điệu khỏe, hình ảnh rộn ràng hơn, một điệu thơ hiếm có ở Bùi Giáng, nhưng vẫn lấy lại chủ đề nguyên xuân, và giọng lẳng lơ cố hữu, cỏ mọc hai hàng, đi đến ngôn ngữ Ẩn Mật về sau. Tóm lại, một bài thơ không Bùi Giáng mà vẫn Bùi Giáng.
Trở lại với giai đoạn Mưa Nguồn, chàng thanh niên Bùi Giáng còn giữ niềm tin ở mùa xuân, ở trần thế trong thời gian, ở Màu Xuân : Ngàn xuân rộng vô ngần trong bóng nguyệt, hay trong bài Bờ Xuân tiếp theo : Mùa xuân bữa trước mùa xuân bữa sau, xuân bốn bên trong hiện tại vây hãm tấn công đời hạnh phúc lạnh như băng không làm sao nhúc nhích.
(Mưa Nguồn, tr. 38-39)
Mùa xuân, mùa xuân hiển hiện, lung linh ánh sáng, long lanh thinh sắc. Trong niềm hoan lạc của đất trời, con người an tâm vui hưởng, vì tin ở sự tuần hoàn miên viễn, như tin vào một cánh én :
Én đầu xuân tuyết đầu đông
Rừng cô tịch ngóng nội đồng trổ hoa
(Mưa Nguồn, tr. 62)
Người ta thường nói : xuân về. Chữ về tin tưởng an lạc như Về Cố Quận. Xuân về với gió đông, xuân mang thương nhớ trở về (Nguyễn Bính). Chữ về gây cảm giác ấm cúng, thân thiết, tin cậy :
Mùa xuân hẹn Thu về em trở lại
Ta nhìn nhau trong bóng nước mơ màng
Nước chảy mãi bởi vì xuân trở lại
Với dòng trong em hẹn ở bên đường Ta sẽ đợi nghe đời em kể lại
Thuở xưa kia… bờ nước ấy xưa kia
Ta sẽ đợi nghe đời em nói mãi
Bên đời ai vạn đợi đã chia lìa
Mùa xuân hẹn thu về em trở lại
Bên đời đi còn giữ mãi hay không
Giòng bất tuyệt xanh ngần xuân thơ dại
Sầu hoang vu vĩnh hạ vọng non hồng.
(Mưa Nguồn, tr. 61)
Thơ là hạnh phúc của ngôn từ như trong Một Ngày Lễ Hội, tên một bài thơ Holderlin được Heidegger bình minh. Hạnh phúc trong lời nói, của lời nói, dù nói để chẳng nói gì : thuở xưa kia… bờ nước ấy xưa kia. Câu thơ không mang lại một thông tin nào cả. Xưa kia làm gì ? Bờ nước ấy : ấy nào ? Nào ai biết. Chỉ biết là không gian và thời gian hạnh phúc. Hạnh phúc không cần nội dung. Hạnh phúc không cần lý do, không cần tự thức.
Ngõ ban sơ, hạnh ngân dài, cổng xô còn vọng… Bùi Giáng mách ta thế, và có lần kể :
Xưa kia tôi đã có lần
Và bây giờ đã đôi phần tôi quên
(Ca dao, Mưa Nguồn, tr. 143)
Nhà thơ không cho biết đã có lần làm gì, nhớ gì và quên gì, nhưng chúng ta cảm rằng xưa kia ấy là hạnh phúc, ngay trong nhịp thơ tần ngần, ngập ngừng, lơ đãng. Hồ Dzếnh rất được Bùi Giáng yêu thích, đã thật thà hơn : Có lần tôi thấy tôi yêu
Dáng cô thôn nữ khăn điều cuối thôn
Xa rồi, nay đã lớn khôn
Biết cô hàng xóm có còn nhớ nhau ?
Chúng ta đối chiếu, sẽ thấy sự khác biệt giữa hai tác giả, và đặc sắc của thơ Bùi Giáng mà chúng tôi gọi là hạnh phúc của ngôn ngữ :
Xin yêu mãi và yêu nhau mãi mãi
Trần gian ôi ! Cánh bướm cánh chuồn chuồn
Hạnh phúc ấy là Xuân Trần Gian, ăm ắp trong thơ Bùi Giáng, thời điểm mưa nguồn trên mái tóc. Cùng với tinh thần đó, trước khi mất, ông đặt cái tên Thơ Vô Tận Vui cho một tập di cảo sắp sửa được xuất bản.
Tuy nhiên, niềm vui vô tận ở đây chỉ là một minh triết về cuộc sống. Từ đó không thể nói đời và thơ Bùi Giáng lúc nào cũng vui, dù theo lẽ buồn vui tương đối của sự đời. Vui ở đây hiểu theo nghĩa hiền triết Đông Phương, như cá vui, bướm vui trong Nam Hoa Kinh của Trang Tử. Nhìn dưới góc độ tư tưởng hiện sinh của Phương Tây, thì ngược lại, có thể nói đến “bi kịch“.
Từ 1948, Bùi Giáng có câu thơ sấm ký : Ngày Xuân xanh sơ ngộ để thiên thâu (Mưa Nguồn, tr. 57). Câu thơ quan trọng, mang mâu thuẫn, có tính cách biện chứng, giữa thiên thu và sơ ngộ. Một mặt, nó nằm trong mạch Vũ Trụ Ca của Huy Cận : Lòng chim gieo sáng dệt vân sa
Trên bước đường xuân trở lại nhà
Mở sách chép rằng : vui một sáng
Nghìn năm còn mãi tấm lòng ta
(Áo Xuân, 1942)
Mặt khác, nó báo hiệu cho chủ đề « chết từ sơ ngộ », và Màu Hoa trên Ngàn sơ khai đã là Màu Hoa Cuối Cùng :
Lỡ từ lạc bước bước ra
Chết từ sơ ngộ Màu Hoa Cuối Cùng (Chớp Biển, tr. 45)
Bùi Giáng, rất sớm, đã linh cảm rằng mình suốt đời đứng nguyên ở một tọa độ, xác định bởi một không gian Cố Quận và một thời điểm Nguyên Xuân :
Rồi tôi lớn, đi vào đời chân bước
Cỏ Mùa Xuân bị giẫm nát không hay
Chợt có lúc hai chân dừng một lượt
Người đi đâu ? Xưa chính ở chỗ này
(Chỗ Này, Mưa Nguồn, tr. 82)
Có một mùa xuân nào, tuần hoàn trong trời đất, cùng với niềm vui nào đó. Nhưng có một hạnh phúc khác, màu xuân khác không bao giờ trở lại với nhân gian :
Mưa Nguồn cũ quá xa rồi một trận
Ôi xuân xanh vĩnh biệt như thể nào
(…) Người viết mãi một màu xanh cho cỏ
Người viết hoài một màu cỏ cho xuân…
(Bài Ca Quần Đảo, tr. 22-23)
Rồi suốt đời, khi sáng suốt, khi cuồng điên, qua hằng vạn trang sách, người thơ chỉ làm hoài làm hủy một bài thơ, vẽ cho mình một chân dung duy nhất, như viết hoài một màu cỏ cho xuân.
Xuân mười sáu suốt bến xuân chìm tắt
Một bài thơ gieo suốt tự bao giờ
(Bài Ca Quần Đảo, tr. 11)
Năm mười sáu tuổi đã xảy ra biến cố gì trong đời tác giả làm chìm tắt mùa xuân ? Chúng ta không biết, chỉ biết là ông làm thơ từ tuổi ấy, khoảng 1942, tại Huế, theo lời ông kể ở đầu sách Lời Cố Quận.
Xuân về xuân lại xuân đi
Đi là đi biệt từ khi chưa về
Hai câu thơ đơn giản. Ngớ ngẩn mà thâm sâu. Vớ vẩn mà thần sầu.
Thâm sâu ở chỗ : lời nói tự hủy, tự lời bôi xóa lời. Câu thơ có nghĩa là : tôi vô nghĩa.
Thần sầu ở chỗ : không mấy ai thấy cái chốn thâm sâu.
Thơ Việt Nam nhiều câu hay. Nhưng hay kiểu Bùi Giáng, xưa nay có một.
*
Mưa Nguồn, tên sách là một từ ngữ, hình ảnh thông thường, như trong thành ngữ dân gian, chớp bể mưa nguồn.
Những trận mưa rừng núi là hiện tượng thiên nhiên quen thuộc, có lẽ Bùi Giáng đã nhiều lần chứng kiến cụ thể thời trai trẻ, khi chăn dê miền Trung du Trung Phước, khoảng 1946. Đây là những trận mưa giông lớn, ào ạt đổ xuống rất nhanh, nhất là vào mùa hè, gây ấn tượng mạnh. Mưa Nguồn có thể hiểu theo nghĩa đen.
Lại thêm nghĩa bóng : mưa móc, ân sủng dội xuống nơi cội nguồn cuộc sống, ào tuôn, « giáng » xuống một lần rồi thôi, nhưng cũng có thể trở lại, trong lẽ tuần hoàn, như lời chờ mong của Tản Đà : Nước đi ra bể lại mưa về nguồn, trong Thề Non Nước.
Cần hiểu thêm, chữ nguồn, ở quê Bùi Giáng, còn có nghĩa đời sống của dân tộc thiểu số ở miền trung du Trung Bộ, mà Bùi Giáng thường xuyên tiếp xúc. Họ thuộc nhiều chủng tộc, chủ yếu là người Gié Triêng và Ca Tu, mà cuộc đời hoang dã đã tạo ra và lưu lại nhiều ấn tượng sâu xa trong tâm thức Bùi Giáng. Cuộc trao đổi hàng hóa giữa hai miền xuôi ngược – ngày nay gọi là Kinh Thượng – đã để lại câu ca dao :
Ai về nhắn với nậu nguồn
Mít non chở xuống, cá chuồn chở lên
Nậu nguồn là những thương nhân chuyên môn buôn bán với Mạn Ngược. Và ở đây có thể phát âm hai vần ngùn/chùn theo giọng Quảng Nam của Bùi Giáng, cũng như Mưa Ngùn. Như vậy mới kết vần được hai câu ca dao địa phương khác, mà Tế Hanh hay Sơn Nam ưa tham chiếu :
Chim quyên xuống đất ăn trùn
Anh hùng lỡ vận lên ngùn (nguồn) đốt than
Thơ Bùi Giáng, có khi cần phải phát âm theo giọng tác giả, mới thú vị :
Chén trà sương sớm bên thềm
Vừa chờ chim hót vừa thèm chim (chiêm) bao. (Chén Trà, báo Thời Văn, tr. 24)
Chim hót đối ngẫu với chim (chiêm) bao.
Chữ Nguồøn ở Bùi Giáng là một hình ảnh vừa quê mùa vừa uyên bác, tự nhiên mà tinh tế. Gốc Hán Việt là « nguyên », là nguồn cội, là nguồn sống, là Sơ Nguyên Ngọn Suối : con chim điên vì nhớ Suối vô cùng. Suối cũ Suối xanh Suối bờ mọc cỏ. Suối võ vàng em có hai tay Suối mừng nhìn thấy. Suối khóc suốt đêm bây giờ suối nín… (Gió Nguồn, Lá Hoa Cồn, tr. 75).
Suối ở đây là Nguồn Xuân Tinh Thể. Nhưng nói vậy là nói lắp, vì Xuân đã là Nguồn, và Suối đã là Xuân. Tiếng Anh rất hàm súc khi dùng một từ Spring để chỉ Xuân và Nguồn. Trong thơ Bùi Giáng, Xuân đồng nghĩa với Nguồn, như trong tiếng Anh. Nó là cõi uyên nguyên có trước Trời Đất, là « cái cửa khe huyền diệu » – « huyền tẫn chi môn » theo lời Lão Tử. Chữ « tẫn » Ngô Tất Tố diễn dịch là khe, mà có người « cắt nghĩa là giống cái, tức là mẹ đẻ của muôn vật. Đó cũng là một nghĩa ».
Có lẽ, từ đó hình ảnh khe, kết hợp với người Nữ, thường xuất hiện nơi thơ Bùi Giáng. Chữ môn nghĩa là cửa (nhân tạo), linh mục Dòng Tên, Claude Larre dịch là Porte (des secrètes merveilles) có lẽ, về sau đã gợi ý cho Bùi Giáng làm đoạn thơ nổi tiếng bắt đầu với hai chữ ngõ và cửa : _ Ngõ ban sơ, hạnh ngân dài
Cửa xô còn vọng điệu tài tử qua
Niềm vui, nghĩa sống con người đã xô cửa bước ra từ cõi ban sơ ấy, và ngân dài, âm vọng qua lời thơ của người tài tử. Nhưng về sau lại lỡ từ lạc bước bước ra… và tác gỉa, hay độc gỉa có thể tùy nghi ráp nối nhiều câu lục bát khác vào đoạn trên, như Tuệ Sĩ đã gợi ý trong một bài báo rất uyên bác, trên báo Văn 1973 :
Ta về ngóng lại mưa sa Giọt dài ly biệt nghe ra giọng chào Hoặc :
Em về giũ áo mù sa
Trút quần phong nhụy cho tà huy bay
Vân vân… Như đã nói : toàn bộ tác phẩm Bùi Giáng có thể xem như là một bài thơ duy nhất, một nét chữ lên đàng quẩn quanh. Và người đọc lý thú, vì cảm giác tham dự vào cuộc chơi, thậm chí là đồng tác.
Người đời thường trích dẫn mấy câu thơ hay, bề ngoài đơn giản, nhưng kỳ thật là phức tạp :
Hỏi tên ? Rằng biển xanh dâu
Hỏi quê ? Rằng mộng ban đầu đã xa
Gọi tên rằng một hai ba
Đếm là diệu tưởng, đo là nghi tâm.
(Chớp Biển, tr. 132)
Hai câu đầu là một hình ảnh từ chương. Câu sau đã khó hiểu hơn : một, hai, ba nghĩa là gì ? Hoặc ta cho là thơ cà chớn, không cần tìm hiểu ; hoặc ta tìm hiểu và tham chiếu vào Đạo Đức Kinh, lời Lão Tử : « Đạo sinh ra một, một sinh ra hai, hai sinh ra ba, ba sinh ra vạn vật » ; ý thức con người đong đưa giữa cái nghi và cái diệu : không nghi thì không có diệu, không nhờ cái diệu thì không giải tỏa được cái nghi. Đo và Đếm là hai thao tác của Tâm và Tưởng để tiếp xúc và nhận thức ngoại giới : đo cái liên tục và đếm cái gián đoạn. Nhưng còn là, là gì ? Là môi giới qua Lời Nói. Nhưng Lời Nói là gì ? Chúng ta trở về vị trí đong đưa sóng biển giữa Diệu và Nghi.
Hiểu thơ Bùi Giáng không phải lúc nào cũng đơn giản. Mà không hiểu, chưa chắc đã đơn giản.
Bàn về một chữ Xuân mà phải dàn xa dặm dài, như vậy phải biết ngừng lời, vì :
Thưa rằng nói nữa là sai
Mùa xuân đang đợi bước ai đi vào
(Chào Nguyên Xuân, Mưa Nguồn, tr. 25)
*
Tháng 5/1969, Bùi Giáng vào dưỡng trí viện Biên Hòa vì bệnh đã từ « cuồng nhẹ chuyển sang cuồng nặng », các bác sĩ trong viện đã hỏi ông về hình ảnh cô Em Mọi Nhỏ thường thấy trong thơ, và họ kể lại :
« Trong thời trai trẻ, đi kháng chiến, một chiều nọ, mệt, đói, anh đang lê từ bước một với chiếc ba lô khá nặng sau lưng, thì vừa quẹo một bước đường mòn, anh chợt thấy một thiếu nữ thiểu số đang giặt áo bên bờ suối, anh vừa dừng chân thì « bông hoa rừng » nó cũng vừa ngừng tay giặt, mỉm cười với anh, và niềm nở hỏi chào anh. Anh tưởng chừng mình đang lạc vào suối Đào Nguyên, và hình ảnh này vẫn không phai trong tâm khảm » .
Câu chuyện, nếu quả có xảy ra thực cũng nên xem như một giai thoại và một biểu tượng. Người Em Mọi Nhỏ xuất hiện thường xuyên trong đời thơ Bùi Giáng, suốt một nửa thế kỷ khói lửa và biển dâu, không dễ gì giải thích được bằng một nụ cười sơn cước. Cuộc đời, đời ai và đời gì, cũng không đơn giản như vậy và đời Bùi Giáng lại có phần phức tạp hơn bình thường.
Gái Núi, hay Em Mọi Nhỏ, còn có tên Duồng mô Din, là một ẩn dụ hữu cơ trong thơ Bùi Giáng, và có khả năng cấu trúc thi hứng như một hình ảnh Đầu Nguồn, một sử lịch sơ khai, một Suối Xuân diễm tuyệt như đoạn trên đã nói.
Gái Núi là một khai thị, khai tâm, khai tứ, khai từ :
Em từ Mọi Nhỏ thanh tân
Mười hai con mắt thiên thần mở ra
(Mười Hai Con Mắt, tr. 71)
Mở mắt để tiếp thu mùa Xuân Tinh Thể
Mọi là Em, Mọi Sơ Xuân
Ban Sơ núi đỏ chào mừng non xanh (Bài Ca Quần Đảo, tr. 34)
Em Mọi là quần thể, lập thành xã hội sơ khai một ảo ảnh mà nhà thơ đã tiếp thị thời hoa niên, và dần dà ngày một ngày hai đã cấu trúc thành một triết lý uyên nguyên, cấu trúc nguồn thơ và tiềm năng sáng tạo :
Em ở trong rừng
Mọi chị mọi em
Sinh bình quay quần
Suốt mấy mùa xuân
Một thời thơ dại
Em là em mọi
Em ở đâu rồi
(Tặng Em Mọi, Mười Hai Con Mắt, tr. 215)
Mọi chị mọi em, vị chi là nhiều em mọi. Kết hợp với mấy mùa xuân, thời thơ dại, hình ảnh Em Mọi ở đây, cũng như ba người con gái chiêm bao ở bờ cỏ Phi Châu ở nơi khác, không phải là hoang tưởng tình ái nam nữ song phương, kiểu Kinh Thượng giao duyên, như trong những bài hát Bông Hoa Rừng, hay Nụ Cười Sơn Cước. _ Thậm chí trong thơ Đinh Hùng :
Nàng lớn lên giữa mùa xuân hoa cỏ
Nửa linh hồn u ám bóng non xanh
Ngoài thiên nhiên nở bừng thân mỹ nữ
Nàng yêu ta, huyền hoặc mối kỳ tình
(…)
Chúng tôi gặp nhau bên dòng suối ngọt
Làm đôi người cô độc thuở sơ khai
Nàng bâng khuâng đốt lửa những đêm dài
Ta từng buổi bơ vơ tìm bộ lạc
Nàng là Gái Muôn Đời không đổi khác
Bộ ngực tròn nuôi dòng sống đương xuân
(Người Gái Thiên Nhiên, trong Mê Hồn Ca)
Người Gái Thiên Nhiên ở Đinh Hùng là một giấc mơ hiện đại, với bộ ngực tròn trên tấm thân mỹ nữ, như trong những tiết mục trình diễn thi hoa hậu ở Âu Tây.
Nàng bâng khuâng đốt lửa những đêm dài là hoang tưởng lãng mạn từ Chateaubriand hồi đầu thế kỷ 19 còn ngân dài qua văn học, đến Đinh Hùng và nhiều tác gia khác.
Nhưng Bùi Giáng đã gặp thơ Đinh Hùng, và thân thiết với cá nhân Đinh Hùng. Bùi Giáng viết nhiều bài khảo luận về các nhà thơ đương thời và quen biết với mình, nhưng dường như chỉ tha thiết với thi phẩm của hai người, là Tuệ Sĩ và Đinh Hùng :
« Đinh Hùng Mê Hồn Ca muốn nhảy vọt một trận. Ông muốn sống lại tâm tình người nguyên thủy. Ông muốn mang linh hồn nguyên thủy về đối diện với xã hội văn minh… » (Thi Ca Tư Tưởng, tr. 132).
Tuy nhiên giữa cuộc gặp gỡ đó, có điều khác nhau : Nguyên Thủy trong thơ Đinh Hùng chỉ làm đề tài thi ca, cùng lắm là một ẩn ước. Ở Bùi Giáng là khối ẩn ức, hiểu theo nghĩa đẹp mà Bùi Giáng gọi là Mnemosyne, niềm nhớ nhung sâu kín, nỗi u hoài thao thiết, nguồn thi hứng chủ đạo. _ Đinh Hùng đã có những câu thơ tình diễm lệ :
Thương nhau gói trọn hồn trong áo
Mất nhau từ trong tà lụa bay
(Hờn Giận, Đường vào Tình Sử)
Những nét diễm tình này, không thấy ở Bùi Giáng, cho dù về sau, Bùi Giáng cũng có vài lời thơ mang âm hao Đinh Hùng :
Em ở trong rừng một buổi xưa
Ngẫu nhiên tao ngộ gió sang mùa
Hai bờ lãnh địa đau lòng gọi
Sầu suốt giang sơn vọng tiếng thừa
Em ở trong rừng em cũng đi
Xuân tàn lửa hạ đốt trang ghi
Rừng thiêng sự tích mờ vân thạch
Vĩnh biệt lâm tuyền em bỏ đi
Mất hết rừng xanh suối ngọc rồi
Em từng là mọi mộng khơi vơi
Rừng xanh nắng biếc em cười nói
Một thoáng bình sinh giữa bốn trời
(Em Mọi là Em, Chớp Biển, tr. 84-85)
Rừng xanh, rừng thiêng, lâm tuyền ở đây không hẹn hò kỳ ngộ như ở Đinh Hùng, mà là nỗi tổn thương không cứu vãn.
Một trần gian lạc dấu Mùa Xuân :
Còn ngọn suối ngọn sông nào mất ngọn
Ngọn nguồn đi trên không ngọn không nguồn
Tôi leo mãi những ngọn đồi xa ngọn
Về xa xuôi những thung lũng xa nguồn
Nằm giữa phố giữa trưa tôi vẽ bóng
Con chuồn chuồn cuối hạ đón đầu thu
Con châu chấu cuối thu về lóng cóng
Sắp sang đông từ giã nguyệt hư phù
(Bài thơ Hay Nhất, Chớp Biển, tr.87)
Ở đây, một năm chỉ còn lại ba mùa, vì rừng đã thiêu rụi mùa xuân :
Em là em mọi
Xưa ở trong rừng
Nay rừng cháy hết
Em lạc ở đâu
(Tặng em Mọi, Mười Hai Con Mắt, tr. 214)
Trong chủ đề Người em Mọi, đời sống sơ nguyên, Mê Hồn Ca của Đinh Hùng không mang lại ảnh hưởng gì cho nguồn thơ Bùi Giáng lúc đó đã định hình, vững chắc, nhưng có lẽ đã vun đắp thêm vào niềm tự tin trong thi hứng của Bùi Giáng. Trường hợp tư tưởng phương Tây, như của Heidegger, có lẽ cũng tác dụng như vậy, khi Bùi Giáng tiếp cận Heidegger. Triết gia Đức này bình luận thơ Holderlin, đề cập đến nguồn gốc vũ trụ, thời Hỗn Mang (Chaos) và Định Danh (Nomos) và tính hoang dã thần thánh (sainte sauvageté) đâm chồi nảy lộc, những hoang dã linh thiêng (sauvagetés sacrées), hoang dã vụng về trong thi tập Les Titans .
Và có lúc, Bùi Giáng đã đẩy niềm u hoài tiền sử của mình lên xa hơn nữa trong thời gian, qua hình ảnh Đười Ươi – người chưa thành người :
Ta về rũ áo đười ươi
Trút tờ phong nhã cho người phụ nhau (Ta Về, Thơ Bùi Giáng, tr. 198)
Đi vào cảnh giới si mê
Gọi đười ươi dậy nhe răng ra cười
(Nhe Răng u buồn, trong Sa Mạc Trường Ca)
Bùi Giáng có bài thơ tổng kết đời mình :
Ấy là thơ thuở chưa điên
Ở trong dấu ngoặc quàng xiên reo cười
Bây giờ xoang điệu đười ươi
Điệu hoa lầu các ngậm ngùi dấn thân
(Thuở Chưa Điên, Thơ Bùi Giáng, tr. 86)
Hai chữ Đười Ươi ở đây sao mà bùi ngùi, thê thiết !
Đười Ươi Thi Sĩ, nhiều lần Bùi Giáng tự xưng như thế, để bày tỏ niềm hoài vọng tìm lại thiên tính của con người, khi chưa lập thành xã hội, trong cõi trời đấtSơNguyên. _ThuởUyênNguyênấy,làmùaXuân của Đất Trời, mùa Xuân của Con Người.
Nói chuyện Mùa Xuân trong thơ Bùi Giáng mà chưa lên tận Ngọn Nguồn để diện kiến Đười Ươi, thì chưa vui.
*
Viết đến đây, chợt về đôi kỷ niệm, chung quanh ngày Tết và mùa Xuân, hiểu theo nghĩa thông thường, không ẩn ý hay biểu tượng, triết lý gì. Ba ngàyTết, ba tháng Xuân, và hình ảnh Tuổi Xuân, như một cành hoa mai, nở một lần trong thơ Bùi Giáng :
Xuân này em có về không
Nhành mai cố quận nở bông dịu dàng
(Thơ Bùi Giáng, tr. 85)
Tiếp theo là một hình ảnh khác của ngày Tết Nguyên Đán :
Mồng ba Tết ra đường con gặp
Một trẻ em đi bán đậu phụng rang
-“Thầy mua giúp ! Đầu năm, dịp Tết”
Con mua nhiều, rồi nước mắt chứa chan
Vì con biết ngày Mồng ba một dịp
Không còn về cho bao đứa trẻ con
Bán đậu phụng hay lau giày lau dép
Đã lang thang đầu gối rụng mỏi mòn.
(…) _ Hỡi Thượng Đế ! Cúi đầu con thưa lại
Ở trần gian ai cũng khổ liên miên
Người đã dựng cảnh tù đày đọa mãi
Để làm gì ? Cho sáng nghĩa Vô Biên ?
(Chớp Biển, tr. 127-128)
Bài thơ hé mở một góc độ khác trong tâm hồn Bùi Giáng : khía cạnh xã hội, nhân đạo trong thơ ông, xuất hiện ngay ở tập thơ đầu, nhưng càng ngày càng rõ nét về sau. Nhất là từ khoảng 1970, trong đời sống lang thang bên hè phố, ông chung đụng với nhiều lớp người cùng khổ, chủ yếu là trẻ em nghèo khó và côi cút, mà ông rất mực yêu thương, chia sẻ từng miếng cơm manh áo. Đây là thời gian ông ý thức rõ tình người trong cơ khổ :
Anh vẫn tưởng đầu đường thương xó chợ,
Ai có ngờ xó chợ cũng thương nhau
Ôi đầu đường ôi xó chợ nơi đâu
Là nơi đó chốn kia anh rất rõ
Trong máu me từng khoảnh khắc sơ đầu
(Anh vẫn Tưởng, Bài Ca Quần Đảo, tr. 48)
Trong cảnh dân tộc điêu linh và xã hội lầm than, thì những phong tục hình thức ngày xuân trở thành vô nghĩa :
Mỗi mùa xuân lá trổ bông
Quên tờ cung chúc cũng không hề gì
(Huế làm Thơ, Bài Ca Quần Đảo, tr. 44)
Trong chừng mực nào đó – xin nói rõ : trong chừng mực nào đó – Bùi Giáng thuộc về thế hệ thanh niên không có mùa xuân, mà Tạ Ký (1928-1979), một nhà thơ xuýt xoát đồng tuế và đồng hương với Bùi Giáng, gọi là Thế Hệ Bốn Lăm :
Chúng tôi :
Thế hệ bốn lăm
Vui chưa bao nhiêu, nhiều lúc khóc thầm
Một phần tư thế kỷ
Bốn lăm ! bốn lăm
Những kẻ ra đi, những kẻ đang nằm
Những kẻ chết, những kẻ còn vất vưởng
Có lần nhà thơ Tạ Ký mô tả làng Trung Phước quê hương mà Bùi Giáng gọi chung là Cố Quận, chìm trong khói lửa :
Con lạc mẹ, bao đêm chồng khóc vợ
Măng bẻ rồi, tre không kín niềm quê
Và ngày Tết, mùa Xuân với thế hệ ông :
Cười nghiêng núi thẳm xuân gian khổ
Khóc đứng quê xa tết dạn dày (…)
Có những con người không nói hết
Căm căm thế sự nhíu đôi mày
Cố tri dăm đứa nghèo xơ xác
Ăn chực nằm chờ khắp đó đây
Nhà văn Võ Phiến, trên báo Bách Khoa 1963, trong bài viết về Đỗ Tấn, cùng quê, đã mô tả thế hệ này, trong đó có mình : “Chừng ấy biến đổi dập dồn vào một thế hệ (…) mới lớn lên đã gặp ngay cơn biến động. Trong những năm đáng lẽ nồng nhiệt hăng say nhất của đời họ, thì một niềm tin vừa nhóm lên liền bị phá vỡ, một giấc mơ vừa thành hình vội vàng bị đánh tan. Hy vọng nổ tan tành, liên tiếp, dễ như quả bóng cao su xanh đỏ của trẻ con” .
Dĩ nhiên đây là tâm trạng của một lớp trung niên thi sĩ, ở vào một địa phương, chúng ta không nên khái quát. Thiên hạ thiếu gì người lập thân, lập công, lập danh, lập tài sản, nhờ vào cái mà Võ Phiến gọi là “biến động”, người khác gọi là Lịch Sử, và Bùi Giáng gọi là Sử Lịch.
Nhà thơ Hoàng Trúc Ly, trong lứa tuổi đó, và thân thiết với Bùi Giáng, có câu thơ được truyền tụng một thời :
Mùa Xuân còn gì thưa em
Sáu dây rét mướt chưa mềm trăng khơi
Và Phạm Công Thiện cũng gần gũi với Bùi Giáng, năm 1964, dạy học ở Đà Lạt, có bài thơ Xuân được bạn bè yêu thích :
Mùa Xuân bay thành khói
Tôi ca hát một mình
Suốt đời không biết nói
Nước chảy tràn con kinh
Tạ Ký lúc ấy cũng dạy ở Đà Lạt, rất thích bài thơ này, nhưng bực mình khi nghe một bài hát thời thượng, phổ nhạc thơ Kim Tuấn :
Anh cho em mùa Xuân
Nụ hoa vàng mới nở
Mùa Xuân nào nhung nhớ (…)
Ông bực vì cho là thơ xạo và xảo, vì anh làm quái gì có mùa Xuân mà cho ai, hay cho em ? (dù rằng ở cõi đời này, yêu nhau có khi là cho nhau những cái mình không có). _ Trong tâm trạng này, Tạ Ký có bài thơ Xuân tặng Phạm Công Thiện :
Trời mùa đông rừng núi
Đời mùa đông vô cùng
Hút thuốc trong bóng tối
Khói có bay lên không ?
Vào thời điểm ấy, Đà Lạt 1964, Phạm Công Thiện, có đọc cho tôi nghe câu thơ mới làm :
Cô đơn về trắng sương rừng
Tôi nghe tiếng hát hoang đường nửa đêm.
Pháp, 1984 : bài thơ được in lại trong một album đẹp mà anh tặng tôi. Câu thơ xưa đổi lốt :
Rắn trườn vỡ trứng chim rừng
Tôi nghe tiếng hát hoang đường nửa đêm.
Rắn : vì tác giả tuổi Tỵ (1941)
Giữa hai thoại, không biết câu nào hay hơn. Tôi kể lại chuyện này, vì thấm thoát đã tròn hai mươi năm. Và bốn mươi năm.
Đây là thời gian chúng tôi bắt đầu tiếp cận thơ Bùi Giáng.
Một mùa xuân xa…
Xa.
Bùi Giáng là một nghịch lý.
Ông là một tác gia hàng đầu, một nhà thơ lớn trong văn học Việt Nam hiện đại, đã sống, làm thơ và qua đời, bên lề dòng văn học chính thống. Rồi trong những điều kiện lịch sử nhất định, thơ ông được truyền tụng, truyền khẩu, tạo nên một hiện tượng xã hội và chính trị Bùi Giáng, vào ba thập niên cuối cùng của thế kỷ hai mươi.
Tác gia Bùi Giáng, và nhà thơ Bùi Giáng đích thực, bị chen lấn giữa những huyền thoại Bùi Giáng. Và những kẻ mến yêu Bùi Giáng đầy thiện chí, đã nhiệt tình viết bài ca ngợi, càng làm rối mù thêm tọa độ của ông trên văn đàn, thêm phần tơ chỉ rối chiêm bao.
Bùi Giáng cả đời chăm chỉ đặt hai bàn chân, chân trái và chân mặt, bên lề chính trị và xã hội, nhưng đã lừng danh – phần nào đó – nhờ những điều kiện xã hội và chính trị. Đây là một nghịch lý, giới hiện sinh một thời có thể gọi là phi lý.
Bài này dĩ nhiên là không có tham vọng giải quyết nghịch lý nói trên. Nó thoạt tiên chỉ là một bài báo Xuân. Nhưng lần theo ý xuân đến thượng nguồn thơ Bùi Giáng, người đọc có thể tìm lại được một trong nhiều sợi tơ mành xuyên qua thi phẩm và tư tưởng Bùi Giáng.
Niềm xuân cố quận tê tê / Được chăng góp nhặt lời quê dông dài…
Người rằng :
Nói nữa là sai
Mùa Xuân đang đợi bước ai đi vào
.
Đặng Tiến Orléans, Toussaint 2003
*
Thơ Bùi Giáng trích từ : Mưa Nguồn, 1962 ; Lá Hoa Cồn, 1963 ; Bài Ca Quần Đảo, 1973 ; Thi Ca và Tư Tưởng, bản in lại 1998 ; Thơ Bùi Giáng, Montreal, 1990 ; Chớp Biển, 1996 ; Mười Hai Con Mắt, 2002 ; Báo Văn, Sài Gòn, 5/1973 ; Báo Thời Văn, TPHCM, số 19, 1997. Có câu ghi theo trí nhớ.
*
Phụ chú 5/11/2003
Người thân Bùi Giáng, là Thanh Hoài, Sài Gòn, đọc bản thảo bài này, đã minh xác một điểm : Bùi Giáng gặp Sơn Nữ không phải lúc đi Bộ Đội, như đã kể lại tại Biên Hòa, năm 1969, mà một năm sau khi giải ngũ. Vào năm 1950, ông từ khu Năm ra khu Tư để thăm nuôi người em là Bùi Tường đang ăn học, phải đi bộ hơn một tháng mới đến nơi. Trong chuyến về, dọc Trường Sơn, Bùi Giáng đã gặp một cô « Gái Núi » đang tắm giặt bên bờ suối. Hình ảnh Nàng Tiên Một Lần này in sâu vào tâm khảm và thường tái hiện dưới tên Người Em Mọi Nhỏ. Khoảng 1990, Bùi Giáng có bài thơ nhắc lại chuyến hành trình, và cuộc gặp gỡ có phần hư cấu :
Đường rừng
Chuyến đi ra Bắc năm xưa
Đường rừng thác đổ nguồn mưa bạt ngàn
Bốn mươi năm lẻ chạy quàng
Té lên té xuống lầm than cũng nhiều
Bảy mươi ba tuổi xế chiều
Còn nghe nức nở hoang liêu đường rừng
(Kỷ niệm chuyến đi năm 1950)
Trích từ Tâm Sự Tuổi Già .
Chiêm bao
Em nằm ngủ giữa núi rừng
Tôi đi ở giữa nỗi mừng nỗi vui
Lội qua khe suối dưới trời
Ngắm mây ngắm gió sáng ngời bình minh
Thấy em nằm ngủ một mình
Ngồi xuống bên cạnh thình lình hôn em.
Cả hai bài thơ còn nằm trong di cảo, chúng tôi công bố để mừng Xuân bạn đọc. Và trân trọng cảm ơn bạn Thanh Hoài, người chính thức giữ tác quyền, đã vui lòng cung cấp.
Đình Thọ (BP69)
Hoa mai Forsithya
Cuối tháng ba hoa nở
Vàng tươi Forsithya
Khí trời âm ấm trở
Chồi xuân chơm chớm đâm .
Hoa cúc Pâquerettes
Li ti lốm đốm trắng
Chi chít trên cỏ xanh
Lè tè nhưng vẫn đứng
Dẫu chân ai vô tình
Hoa chẳng ngại gió đâu.
Làm vườn
Cuối tháng ba ra vườn cuốc đất
Forsithya nở vàng hoa
Lê táo đâm chồi non nỏn lá
Quên đi buốt giá những ngày qua .
Mùa Xuân
Mưa phùn tưới tẩm đất
Tốt tươi cây cỏ xanh
Vạn vật hồi sinh lại
Vui mừng Trời Đất Xuân .
Đình Thọ
Liege 30/03/2005
Mắt màu nâu – HKKM
Xin giới thiệu với các bạn tập thơ Mắt Màu Nâu chị Hồng Khắc Kim Mai sáng tác trong thời kỳ học ở Lycée Blaise Pascal. Thi tập này được xuất bản vào năm 1965 tại Saigon.
http://dactrung.net/tacgia/default.aspx ?TacGiaID=IXZHVWwQAeg8GR7iXA5k1A%3d%3d
.
Tỏ tình
Em có cái mặt tình chi rất lạ
Miệng nói cười và tay thì quậy nước
Anh ngồi nhìn không nói nhưng anh hiểu
Anh ly chanh đường xoáy tán hồn sôi Em kêu chanh chua thì châm thêm dường
Ai không biết ! nhưng anh thích chua chanh
Thanh thanh xanh võ có xơ có múi
Chưa ăn đã thèm giọt rớt giọt rơi Em thấy anh chỉ ngồi nhìn ít nói
Làm em ngượng núc nửa ly chanh đường
Anh mĩm chi gật đầu vô tội vạ
Uống nốt nửa ly kêu say quá trời Nước chanh mà say ? anh chỉ tổ xạo
Anh xoay cái ly, cái ly quay mòng mòng
Anh nói anh say y cái ly
Vì nước miếng em nhu chất rượu nồng
Em chới với vi lời anh quá giỏi
Em quệt môi thích anh câu tỏ tình
Hồng Khắc Kim Mai – 1960/Mắt màu Nâu/1965
.
Thao thức
Cho em xin một ánh mắt thiết tha trìu mến
Và nửa vòng tay
Nửa vòng tay anh choàng qua thân em
Nửa vòng tay em chờ đợi
Và chỉ thấy trong mơ anh ơi Cho em xin một nụ cười âu yếm trên môi anh
Đôi môi thường hôn em trong giấc ngủ
Đẻ tỉnh dậy em mới biết mình đang khóc
Nước mắt chảy dài thấm ướt môi trinh Em hoảng hốt kêu tìm trong bóng tối
Trả về em mộng mới thành hình
Đẻ thấy anh cười để nghe anh nói
Hai bàn tay anh ghì chặt vai em
Những lời yêu thương thì thầm bên gối
Những lời hò hẹn mang tiếng dương cằm
Những lời yêu đương tha thiết
Dù chỉ là aỏ mộng như là anh đã biết
Em thèm thuồng hơi thở ấm canh dài
Đẻ gục mặt vào hồn anh say ngủ
Cho em xin một tình yêu chung thủy
Không chỉ kết thúc bằng một lễ vu quy
Em khẩn thiết van xin cùng thượng đế
Cho giấc mộng em đời em biến thành thực tế
Vì mộng hay tàn buồn lắm lắm anh ơi
Một mình em thao thức tiếc đêm vơi…
Hong Khac Kim Mai/1962/Mat Mau nau/1965
.
Bụi đời mười phương
Vác một đàn con trên vai
Ta đi bụi đời
Chín hướng mười phương
Trạm đầu dừng chân
Chốn Ngọc Hà lừng danh xóm lưới
Bến dứa trổ gai
Thân tù tội
Ngày cơm cháy lót lòng không đủ no
Đêm nằm co sàn gạch
Lạnh rút gân nghe con khóc òa
Mẹ đứt ruột
Tiếng ù ơ rưng rức đêm thâu
Con muỗi buồn xo
Con muỗi vo ve
Vác một đàn con trên vai
Lôi thôi lếch thếch
Thân ăn mày
Tự đáy biển trồi lên đầu non
Mẹ nhìn con
Mây kêu nhức, gió rên buồn, sương kêu ốm
Con nhìn mẹ
Xơ xác liễu hồn
Quẹt nước mắt vắt nguồn thơ
Ăn qua bữa
Miếng tủi miếng thắt
Mặn lạt tình thâm
Bằng đôi chân của khủng long
Bằng đôi cánh đại bàng
Bằng trái tim gà mẹ
Ta áp đảo biển đông
Dọn đường thế hệ
Đưa con đến xứ hào quang
Rộng nhìn năm châu
Nở bừng trí tuệ
Thấm thoát mười sáu năm
Ta tất bật bụi đời
Quên thời gian quên phấn quên son
Hôm nay nghe con ra trường
Ta rộn ràng
Thấp thỏm soi gương
Mới thấy hoang tàn đời dâu biển trên nét mặt
Mới giựt mình
Thấm mệt
Tuổi xuân đã tiêu ma
Hôm nay con mừng vui
Ai cũng mừng vui
Riêng ta
Ta đứng bùi ngùi
Riêng ta
Ta đứng bồi hồi
Nghe loa xướng danh tên con
Tân khoa tiến sĩ
Mẹ òa khóc
Tưởng gọi đúng tên mình
Hồng Khắc Kim Mai
.
Trăng Và Biển
Trong bóng trăng xưa có ánh vàng
Ngân nga xa vắng tiếng thời gian
Thuở trời thắp sáng vòm sắc biếc
Nhạc vỗ đêm trăng sóng ngút ngàn
Sóng như sóng nước sóng biển khơi
Ru vầng trăng ngọc bọt tung rơi
Nghìn năm mưa gió trăng còn mãi
Biển vẫn nằm say sóng ru hời
Mây tím bay qua dãy núi hồng
Chiều như lãng đãng tiếng tơ rung
Trăng treo vầng nguyệt, hồn treo gió
Biển mặn hương nồng biển mênh mông
Trăng có thở than nét úa tàn ?
Sóng theo gió nắng có hoa râm ?
Sóng gầm trên biển nghìn thương nhớ
Giọt nước vung lên lệ ứa tràn
Hồng Khắc Kim Mai
… ? Răng mà cứ theo tui hoài rứa Cái ông ni mới dị chưa tề Sáng, trưa, chiều hai buổi đi về Đưa với đón làm chi không biết! Ôi đôi mắt chi mà tha thiết, Đừng nhìn, làm ngượng bước tui đi Lá thư tình ông gửi làm chi Ba mạ biết, rầy la tui chết Ông tán tỉnh làm chi không biết Tui nhu ma, nhu quỷ dưới âm ty Nói hoài lời hoa mỹ làm chi Tui còn nhỏ, chuyện tình răng biết được. Tội tui lắm, cách cho vài bước Đừng đi gần, hai kẻ sóng đôi Xa … xa cho kẻo bạn tui cười Mai vô lớp cả trường dị nghị. Theo chi rứa, người răng không biết dị ! Thôi được rồi đưa lá thơ đây Mai tan trường, đợi ở gốc cây Tui sẽ tới trả lời cho biết. Vô danh |