Xin giới thiệu với các bạn tập thơ Mắt Màu Nâu chị Hồng Khắc Kim Mai sáng tác trong thời kỳ học ở Lycée Blaise Pascal. Thi tập này được xuất bản vào năm 1965 tại Saigon.
Em có cái mặt tình chi rất lạ Miệng nói cười và tay thì quậy nước Anh ngồi nhìn không nói nhưng anh hiểu Anh ly chanh đường xoáy tán hồn sôi Em kêu chanh chua thì châm thêm dường Ai không biết ! nhưng anh thích chua chanh Thanh thanh xanh võ có xơ có múi Chưa ăn đã thèm giọt rớt giọt rơi Em thấy anh chỉ ngồi nhìn ít nói Làm em ngượng núc nửa ly chanh đường Anh mĩm chi gật đầu vô tội vạ Uống nốt nửa ly kêu say quá trời Nước chanh mà say ? anh chỉ tổ xạo Anh xoay cái ly, cái ly quay mòng mòng Anh nói anh say y cái ly Vì nước miếng em nhu chất rượu nồng
Em chới với vi lời anh quá giỏi Em quệt môi thích anh câu tỏ tình
Hồng Khắc Kim Mai – 1960/Mắt màu Nâu/1965
.
Thao thức
Cho em xin một ánh mắt thiết tha trìu mến Và nửa vòng tay Nửa vòng tay anh choàng qua thân em Nửa vòng tay em chờ đợi Và chỉ thấy trong mơ anh ơi Cho em xin một nụ cười âu yếm trên môi anh Đôi môi thường hôn em trong giấc ngủ Đẻ tỉnh dậy em mới biết mình đang khóc Nước mắt chảy dài thấm ướt môi trinh Em hoảng hốt kêu tìm trong bóng tối Trả về em mộng mới thành hình Đẻ thấy anh cười để nghe anh nói Hai bàn tay anh ghì chặt vai em Những lời yêu thương thì thầm bên gối Những lời hò hẹn mang tiếng dương cằm Những lời yêu đương tha thiết Dù chỉ là aỏ mộng như là anh đã biết
Em thèm thuồng hơi thở ấm canh dài Đẻ gục mặt vào hồn anh say ngủ Cho em xin một tình yêu chung thủy Không chỉ kết thúc bằng một lễ vu quy Em khẩn thiết van xin cùng thượng đế Cho giấc mộng em đời em biến thành thực tế Vì mộng hay tàn buồn lắm lắm anh ơi Một mình em thao thức tiếc đêm vơi…
Hong Khac Kim Mai/1962/Mat Mau nau/1965
.
Bụi đời mười phương
Vác một đàn con trên vai Ta đi bụi đời Chín hướng mười phương
Trạm đầu dừng chân Chốn Ngọc Hà lừng danh xóm lưới Bến dứa trổ gai Thân tù tội Ngày cơm cháy lót lòng không đủ no Đêm nằm co sàn gạch Lạnh rút gân nghe con khóc òa Mẹ đứt ruột Tiếng ù ơ rưng rức đêm thâu Con muỗi buồn xo Con muỗi vo ve
Vác một đàn con trên vai Lôi thôi lếch thếch Thân ăn mày Tự đáy biển trồi lên đầu non Mẹ nhìn con Mây kêu nhức, gió rên buồn, sương kêu ốm Con nhìn mẹ Xơ xác liễu hồn Quẹt nước mắt vắt nguồn thơ Ăn qua bữa Miếng tủi miếng thắt Mặn lạt tình thâm
Bằng đôi chân của khủng long Bằng đôi cánh đại bàng Bằng trái tim gà mẹ Ta áp đảo biển đông Dọn đường thế hệ Đưa con đến xứ hào quang Rộng nhìn năm châu Nở bừng trí tuệ
Thấm thoát mười sáu năm Ta tất bật bụi đời Quên thời gian quên phấn quên son Hôm nay nghe con ra trường Ta rộn ràng Thấp thỏm soi gương Mới thấy hoang tàn đời dâu biển trên nét mặt Mới giựt mình Thấm mệt Tuổi xuân đã tiêu ma
Hôm nay con mừng vui Ai cũng mừng vui Riêng ta Ta đứng bùi ngùi Riêng ta Ta đứng bồi hồi Nghe loa xướng danh tên con Tân khoa tiến sĩ Mẹ òa khóc Tưởng gọi đúng tên mình
Hồng Khắc Kim Mai
.
Trăng Và Biển
Trong bóng trăng xưa có ánh vàng Ngân nga xa vắng tiếng thời gian Thuở trời thắp sáng vòm sắc biếc Nhạc vỗ đêm trăng sóng ngút ngàn
Sóng như sóng nước sóng biển khơi Ru vầng trăng ngọc bọt tung rơi Nghìn năm mưa gió trăng còn mãi Biển vẫn nằm say sóng ru hời
Mây tím bay qua dãy núi hồng Chiều như lãng đãng tiếng tơ rung Trăng treo vầng nguyệt, hồn treo gió Biển mặn hương nồng biển mênh mông
Trăng có thở than nét úa tàn ? Sóng theo gió nắng có hoa râm ? Sóng gầm trên biển nghìn thương nhớ Giọt nước vung lên lệ ứa tràn
Dân miền Nam, những ai bây giờ chừng 55 tuổi trở lên, chắc đều nhớ rõ cách tổ chức độc đáo ở các lớp bậc tiểu học cách đây hơn bốn thập niên. Hồi đó, cách gọi tên các lớp học ngược lại với bây giờ, theo thứ tự từ lớn đến nhỏ. Lớp Năm là lớp Một ngày nay, rồi đến lớp Tư, lớp Ba, lớp Nhì, trên cùng là lớp Nhứt. Lớp Năm, tức là lớp thấp nhất, thường do các thầy cô giỏi nhất hoặc cao niên, dồi dào kinh nghiệm nhất phụ trách. Sở dĩ như vậy là vì bậc học này được xem là vô cùng quan trọng, dạy học trò từ chỗ chưa biết gì đến chỗ biết đọc, biết viết, biết những kiến thức cơ bản đầu tiên, nghĩa là biến từ chỗ không có gì đến chỗ bắt đầu có.
Học trò, không phân biệt giàu nghèo, khi đến lớp chỉ được dùng một thứ bút duy nhất, là bút ngòi lá tre. Gọi là lá tre bởi vì bút có cái ngòi có thể tháo rời ra được, giống hình lá tre nho nhỏ, khi viết thì chấm vào bình mực. Bình mực, thường là mực tím, có một cái khoen nơi nắp để móc vào ngón tay cho tiện. Thân bình bên trong gắn liền với một ống nhựa hình phểu dưới nhỏ trên to để mực khỏi sánh ra theo nhịp bước của học trò. Khi vào lớp thì học trò đặt bình mực vào một cái lổ tròn vừa vặn khoét sãn trên bàn học cho khỏi ngã đổ. Bút bi thời đó đã có, gọi là bút nguyên tử, là thứ đầy ma lực hấp dẩn đối với học trò ngày ấy, nhưng bị triệt để cấm dùng.
Các thầy cô quan niệm rằng rèn chữ là rèn người, nên nếu cho phép học trò lớp nhỏ sử dụng bút bi sớm, thì sợ khi lớn lên, chúng sẽ dễ sinh ra lười biếng và cẩu thả trong tính cách chăng. Mỗi lớp học chỉ có một thầy hoặc một cô duy nhất phụ trách tất cả các môn. Thầy gọi trò bằng con, và trò cũng xưng con chứ không xưng em với thầy. Về việc dạy dỗ, không thầy nào dạy giống thầy nào, nhưng mục tiêu kiến thức sau khi học xong các cấp lớp phải bảo đảm như nhau. Thí dụ như học xong lớp Năm thì phải đọc thông viết thạo, nắm vững hai phép toán cộng, trừ, lớp Tư thì bắt đầu tập làm văn, thuộc bảng cửu chương để làm các bài toán nhân, chia… Sách giáo khoa cũng không nhất thiết phải thống nhất, nên không có lớp học giống lớp nào về nội dung cụ thể từng bài giảng.
Cứ mỗi năm lại có các ban tu thư, có thể là do tư nhân tổ chức, soạn ra những sách giáo khoa mới giấy trắng tinh, rồi đem phân phối khắp các nhà sách lớn nhỏ từ thành thị cho chí nông thôn. Các thầy cô được trọn quyền lựa chọn các sách giáo khoa ấy để làm tài liệu giảng dạy, miễn sao hợp với nội dung chung của Bộ Giáo dục là được.
Tuyệt nhiên không thấy có chuyện dạy thêm, học thêm ở bậc học này nên khi mùa hè đến, học trò cứ vui chơi thoải mái suốt cả mấy tháng dài. Các môn học ngày trước đại khái cũng giống như bây giờ, chỉ có các bài học thuộc lòng trong sách Việt Văn, theo tôi, là ấn tượng hơn nhiều.
Đó là những bài thơ, những bài văn vần dễ nhớ nhưng rất sâu sắc về tình cảm gia đình, tình yêu thương loài vật, tình cảm bạn bè, tình nhân loại, đặc biệt là lòng tự tôn dân tộc Việt. Tôi còn nhớ rõ trong sách Tân Việt Văn lớp Năm có bài học thuộc lòng thật hay về bóng đá mà hồi đó gọi bằng một từ rất hoa mỹ, là túc cầu : .
TRẬN CẦU QUỐC TẾ
Chiều chưa ngã, nắng còn gay gắt lắm Hai đội cầu hăng hái tiến ra sân Tiếng hoan hô thêm dũng mãnh bội phần Để cổ võ cho trận cầu quốc tế. Đoàn tuyển thủ nước nhà hơi nhỏ bé Nếu so cùng cầu tướng ở phương xa Còi xuất quân vừa lanh lảnh ban ra Thì trận đấu đã vô cùng sôi nổi. Tiền đạo ta như sóng cồn tiến tới Khi tạt ngang, khi nhồi bóng, làm bàn Khiến đối phương thành rối loạn, hoang mang Hậu vệ yếu phải lui về thế thủ Thiếu bình tỉnh, một vài người chơi dữ Nên trọng tài cảnh cáo đuổi ra sân Quả bóng da lăn lộn biết bao lần Hết hai hiệp và…đội nhà đã thắng Ta tuy bé nhưng đồng lòng cố gắng Biết nêu cao gương đoàn kết đấu tranh Khi giao banh, khi phá lưới, hãm thành Nên đoạt giải dù địch to gấp bội…
Bài học thuộc lòng này, về sau tôi được biết, lấy cảm hứng từ chiếc cúp vô địch đầu tiên và duy nhất cho đến bây giờ của Việt Nam tại Đông Á Vận Hội trên sân Merdeka của Malaysia vào cuối thập niên 50, với những tên tuổi vang bóng một thời như Tam Lang, Ngôn, Cù Sinh, Vinh “đầu sói”, Cù Hè, Rạng “tay nhựa”… Tuy không biết chơi bóng đá, nhưng thằng bé là tôi lúc đó rất thích bài học thuộc lòng này nên tự nhiên…thuộc lòng luôn.
Càng đọc càng ngẫm nghĩ, đây đâu phải là bài thơ chỉ nói về bóng đá mà thôi. Nó là bài học đoàn kết của một dân tộc tuy nhỏ bé nhưng gan lỳ, bất khuất khiến cho cả thế giới phải ngước nhìn bằng đôi mắt khâm phục. Bạn thấy lạ lùng chưa, chỉ một bài thơ ngắn nói về một thứ trò chơi thôi, mà lại chứa đựng biết bao nhiêu điều vĩ đại mà những lời đao to búa lớn ồn ào chắc chi đã làm được. Nói về môn Lịch sử, hồi đó gọi là Quốc sử, đã có sẵn một bài học thuộc lòng khác : .
GIỜ QUỐC SỬ
Những buổi sáng vừng hồng le lói chiếu Trên non sông, làng mạc, ruộng đồng quê, Chúng tôi ngồi yên lặng, lắng tai nghe Tiếng thầy giảng khắp trong giờ Quốc sử. Thầy tôi bảo : “Các con nên nhớ rõ, Nước chúng ta là một nước vinh quang. Bao anh hùng thưở trước của giang san, Đã đổ máu vì lợi quyền dân tộc. Các con nên đêm ngày chăm chỉ học, Để sau này mong nối chí tiền nhân. Ta tin rằng, sau một cuộc xoay vần, Dân tộc Việt vẫn là dân hùng liệt. Ta tin tưởng không bao giờ tiêu diệt, Giống anh hùng trên sông núi Việt Nam. Bên những trang lịch sử bốn ngàn năm, Đầy chiến thắng, vinh quang và hạnh phúc”
Hình ảnh ông thầy dạy Sử trong bài học thuộc lòng hiện lên, nghiêm nghị nhưng lại thân thương quá chừng, và bài Sử của thầy, tuy không nói về một trận đánh, một chiến công hay một sự kiện quá khứ hào hùng nào, nhưng lại có sức lay động mãnh liệt với đám học trò chúng tôi ngày ấy, đến nỗi mấy chục năm sau chúng tôi vẫn nhớ như in. Lại có bài song thất lục bát về ông thầy dạy Địa lý, không nhớ tác giả là ai, nhưng chắc chắn tựa đề là “Tập vẽ bản đồ”, phía lề trái còn in cả hình vẽ minh họa của Quần đảo Trường Sa và Hoàng sa : .
TẬP VẼ BẢN ĐỒ
Hôm qua tập vẽ bản đồ, Thầy em lên bảng kẻ ô rõ ràng. Ranh giới vẽ phấn vàng dễ kiếm, Từ Nam Quan cho đến Cà Mau. Từng nơi, thầy thuộc làu làu, Đây sen Đồng Tháp, đây cầu Hiền Lương. Biển Đông Hải, trùng dương xanh thẳm, Núi cheo leo thầy chấm màu nâu. Tay đưa mềm mại đến đâu, Sông xanh uốn khúc, rừng sâu chập chùng… Rồi với giọng trầm hùng, thầy giảng : “Giống Rồng Tiên chói rạng núi rừng, Trải bao thăng giáng, phế hưng, Đem giòng máu thắm, bón từng gốc cây. Làn không khí giờ đây ta thở, Đường ta đi, nhà ở nơi này, Tổ tiên từng chịu đắng cay, Mới lưu truyền lại đêm ngày cho ta. Là con cháu muôn nhà gìn giữ, Đùm bọc nhau, sinh tử cùng nhau. Tóc thầy hai thứ từ lâu, Mà tài chưa đủ làm giàu núi sông ! Nay chỉ biết ra công dạy dỗ, Đàn trẻ thơ mong ở ngày mai. Bao nhiêu hy vọng lâu dài, Dồn vào tất cả trí tài các con …”
Giờ đây, mấy chục năm đã trôi qua, tóc trên đầu tôi cũng bắt đầu hai thứ như ông thầy già dạy Địa trong bài học thuộc lòng ngày ấy, nhưng có một điều mà tôi nghĩ mãi vẫn chưa ra. Ông thầy đang dạy Địa, hay ông thầy đang âm thầm truyền thụ lòng yêu nước, lòng tự tôn dân tộc cho đàn trẻ thơ qua mấy nét vẽ bản đồ ?
Lời của thầy thật là nhẹ nhàng, khiêm tốn nhưng cũng thật là tha thiết, chạm vào được chỗ thiêng liêng nhất trong tâm hồn những đứa trẻ ngây thơ vào những ngày đầu tiên cắp sách đến trường, nơi chúng được dạy rằng ngoài ngôi nhà nhỏ bé của mình với ông bà, cha mẹ, anh em ruột thịt, chúng còn có một ngôi nhà nữa, rộng lớn hơn nhiều, nguy nga tráng lệ, thiêng liêng vĩ đại hơn nhiều, một ngôi nhà mà chúng phải thương yêu và có bổn phận phải vun đắp : Tổ quốc Việt Nam.(st)
Một lần. Buổi trưa. Lâu rồi. Mẹ tôi ngồi nhặt cau trên sập gụ. Tôi nằm ngửa bên cạnh bà, hai tay cầm giơ trước mặt cuốn truyện Đoạn Tuyệt của Nhất Linh. Đọc đến đoạn cảnh mẹ chồng ác nghiệt với con dâu, tôi nhỏm dậy hỏi mẹ tôi : “Mợ này, mợ có phải chịu cảnh mẹ chồng nàng dâu như cậu tả trong truyện không ?”. Mẹ tôi ngửng lên nhìn tôi nói : “Đấy là cậu viết tiểu thuyết… Bà nội con có khó tính thật nhưng đâu đến nỗi khắc nghiệt thế…”. Rồi mẹ tôi tiếp tục nhặt cau. Lát sau, khi tôi đang đọc tiếp cuốn truyện thì có tiếng bà bên tai : “Khi bà nội con có chuyện gì không bằng lòng thì bà đổi cách gọi. Thường thì bà kêu mợ là bà Tam. Bà Tam ơi ! Ra tôi bảo cái này… Gọi thế là âu yếm đấy. Nhưng khi bà đổi giọng gọi thế này thì mợ biết ngay là sắp sửa có gì to chuyện : Này ! bà Cẩm Lợi ! Nghe tôi nói đây !”.
Tại sao bà nội tôi lại yêu bà Tam và ghét bà Cẩm Lợi nhỉ ? Bởi vì với tôi, không bao giờ mẹ tôi là bà Tam, không bao giờ mẹ tôi là bà Nhất Linh. Với tôi, mẹ tôi luôn luôn là bà Cẩm Lợi, từ ngày tôi lọt lòng mẹ tôi cho đến ngày mẹ tôi qua đời. Cuộc đời của bà gắn liền với cái tên hiệu Cẩm Lợi và cái tên hiệu này gắn liền với những hạt cau khô, mặc dù đôi lúc Cẩm Lợi còn bán cả cá mắm, cá khô, thậm chí còn là tên của một tiệm may y phục phụ nữ… Từ những ngày rất xa xưa ở Hà Nội ở căn nhà số 9 Hàng Bè trước khi tản cư và số 15 Hàng Bè sau khi tản cư về, tuổi thơ tôi lớn lên bên những bồ cau và mùi diêm sinh. Căn nhà rộng có nhiều phòng. Nguyên một phòng giữa chứa đầy những bồ cau, chất chồng lên nhau đến sát trần. Thuở bé chúng tôi thường chơi trò đi trốn và căn buồng đó, tối tăm và nhiều ngõ ngách giữa những bồ cau, là nơi đi trốn lý tưởng. Tôi thường trèo lên những bồ cau trên cao gần đụng trần, nằm áp mặt trên những bao tải, cảm thấy cái vải bố nháp in hằn trên má và thở cái mùi cau khô toát từ những bao bố. Mẹ tôi kinh hoảng khi khám phá ra cái trò chơi nguy hiểm này của chúng tôi : “Mấy cái bồ cau nó mà đổ xuống thì chúng bay cứ mà chết bẹp !”. Mẹ tôi khi mắng chúng tôi hẳn là bà nghĩ tới cái tai nạn chết đuối đã giết chị Thanh tôi trong cái ao ở trại Cẩm Giàng. Thuở ấy những người đàn ông hình như trốn tiêu đâu mất cả. Tôi lớn lên như người không cha. Chả ai hỏi tôi ông Tam đâu hay ông Nhất Linh đâu ? Luôn luôn người ta gõ cửa rồi thò cái đầu vào hỏi : “Có bà Cẩm Lợi ở nhà không ?”. Chả bao giờ tôi thấy ông nội ông ngoại, bố tôi hoặc các bác các chú. Xúm lại quanh tôi toàn những đàn bà : bà nội, bà ngoại, bà mẹ, bà vú, và một đống bà cô bà thím…. Không có ông Nhất Linh, ông Hoàng Đạo, ông Thạch Lam. Chỉ có bà Cẩm Lợi, thím Long, thím Sáu… như thể một bên là tiểu thuyết, một bên là đời thường. Bà Cẩm Lợi ngồi nhặt cau trên sập gụ. Đó là hình ảnh quen thuộc đã ăn sâu trong ký ức tôi từ ngày tấm bé. Đầu vấn khăn, chiếc áo cánh trắng, chiếc quần lĩnh đen, mẹ tôi cúi xuống chà chà cho sạch những hạt cau khô ẩm bị xanh mốc. Trên chiếc sập gụ giang sơn riêng của bà, mẹ tôi vừa nhặt cau, vừa tiếp khách hàng, vừa đôn đốc đám người làm, vừa chơi rỡn nựng nịu con cháu. Đêm đến khi căn nhà đã chìm vào yên vắng bà trải trên sập đống giấy bạc kiếm được trong ngày, đếm từng tờ và xếp buộc thành bó dầy cộm rồi cất trong chiếc két sắt trước khi bà ngủ trên sập gụ ấy. Trong túi áo cánh của bà lúc nào cũng xệ xuống một chùm chìa khoá nặng chịch. Mẹ tôi hay dùng chùm chìa khoá này làm đồ chơi cho trẻ con, bà lắc lắc chùm chìa khóa kêu rộn ràng trước mặt đứa bé cho đến khi nào nó ngoẻn miệng cười mới thôi. Người đàn bà già nhất sống gần tôi thuở nhỏ là bà ngoại. Bà chết lúc tôi còn bé nên tôi chả nhớ gì nhiều về bà. Hình như người bà gầy đét. Vấn khăn. Răng đen. Một bà già trầu điển hình. Kỷ niệm của tôi thời thơ ấu nếu có chừa một chỗ nhỏ cho bà thì lại là một kỷ niệm không mấy gì đẹp đẽ. Xấu hổ là đằng khác. Hồi đó tôi ngủ chung giường với bà ngoại. Trong một căn buồng trên gác của căn nhà số 15 Hàng Bè. Trước buồng là một hành lang hẹp trông ra phố. Có một đêm ăn phải cái gì mà tôi mót đi cầu quá. Nghĩ tới chuyện phải mò xuống cái cầu tiêu hôi thối ở mãi tít sau nhà dưới giữa đêm tối lại phải lần qua những bồ cau mà tôi lạnh cả người. Bước ra ngoài hành lang người đã bủn rủn. Tôi bèn nghĩ ra một cách giải quyết rất gọn là ngồi phịch xuống ở một góc làm một bãi tướng. Sáng hôm sau ngủ dậy tôi ra hành lang nhìn thì ô hay cái sàn sạch bóng ! Mình có ngủ mơ không chứ ? Buổi trưa ăn cơm tôi nghe hai người làm nói chuyện với nhau : “Rõ khổ ! Cụ bây giờ già lẫn quá rồi… Cứ bạ đâu là ỉa đó !”. Khám phá ra điều bí mật này, sau đó tôi còn làm thêm vài bãi nữa và đều bình an vô sự ! Bà nội tôi thì trái lại có tướng võ, người cao to. Dưới mắt tôi hồi nhỏ bà nội trông như đàn ông. Gương mặt bà có đường nét không thể lẫn với ai. Đôi mày rậm, mắt sâu, sống mũi cao. Cái tướng đó mà chui vào chiếc áo tu hành tôi thấy có vẻ lệch lạc. Từ một thuở xa nhất, hồi ở Cẩm Giàng lúc tôi mới lên năm, hình ảnh và tiếng tụng kinh của bà đã thấm sâu vào tuổi thơ tôi. Bà ngồi trên sập, khoác áo nâu sồng, một tay chắp trước ngực, một tay gõ mõ. Nam mô a di đà Phật… Nam mô á di đà Phật… Nam mô ạ di đà Phật… Tiếng tụng kinh đều đều tôi nghe cứ nhỏ dần đi như tiếng kêu rỉ rả của những con ve sầu. Tôi lại có cảm tưởng như bà vừa ngủ vừa tụng, lâu lâu chợt thức, tiếng tụng bỗng to lên như tiếng ve ran. Và như một giọng ru buồn nản Nam mô a di đà Phật đã trôi vào giấc ngủ ấu thơ của tôi. Sau này biết rõ hơn về bà nội tôi thấy bà là người phi thường. Chồng chết khi bà mới 37 tuổi, một mình xây dựng và cai quản cả một dinh cơ Cẩm Giàng, lại nuôi bẩy con trở thành những người lỗi lạc. Một người đàn bà như thế “dễ có mấy tay” phải là người cứng rắn và độc đoán. Mẹ tôi vào làm dâu nhà bà, lại không phải đến từ một gia đình giầu có và danh vọng, chắc chắn phải chịu cảnh “mẹ chồng nàng dâu” nếu không quá quắt như bà phán Lợi trong Đoạn Tuyệt thì cũng khó sống cho yên. Thế mà mỗi lần có gì không vừa ý bà nội Lê thị Sâm chỉ lôi tên bà Cẩm Lợi ra nhiếc. Mẹ tôi quả là người may mắn ! Gần đây đọc cuốn hồi ký của cô Năm tôi (Hồi ký về gia đình Nguyễn Tường – Nguyễn Thị Thế) đoạn viết bà nội đối xử nghiêm khắc và độc đoán với người con gái duy nhất của bà, tôi hiểu là vì sao mẹ tôi may mắn hơn cô Năm. Bà nội tôi và mẹ tôi (và có lẽ phần lớn những bà mẹ của thế hệ ấy) có một điểm giống nhau. Đó là đối xử thiên lệch với con cái : con trai bao giờ cũng được cưng chiều và nể trọng hơn. Huống hồ trong số sáu người con trai, bà nội tôi hình như lại yêu và nể bố tôi nhất. Tôi nghĩ rằng khi bà nội gọi mẹ tôi bằng cái tên thân thương “bà Tam”, bà đã gửi cái trìu mến về người con trai thứ ba của bà. Cộng thêm vào đó mẹ tôi lại là một người hết sức khéo léo trong cách ăn ở. Chả thế mà trong gia đình nội ngoại chúng tôi nói đùa là mẹ tôi đã tước cái chức bộ trưởng ngoại giao của bố tôi. Dưới mắt tôi mẹ tôi không bao giờ là người đàn bà đẹp. Đôi lúc tôi còn thấy xấu là đằng khác. Có thể là vì khi tôi được sinh ra đời mẹ tôi đã đẻ trên mười người con. “Đẻ như thế thì còn gì là người”. Tôi nghĩ. Hơn thế nữa qua hình ảnh bà Cẩm Lợi mẹ tôi lúc nào trông cũng lam lũ và luộm thuộm. Một hình ảnh và một nhan sắc như thế làm sao mê hoặc được bố tôi nhỉ ? Cho đến mãi gần đây chị Thoa tôi từ bên Pháp gửi tôi một tấm ảnh rất cũ, chụp tám năm trước khi tôi lọt lòng mẹ, lần đầu tiên tôi mới thấy dung nhan của bà thời trẻ. Một người đàn bà đẹp. Bức ảnh chụp năm 1932, mẹ tôi 25 tuổi. Năm ấy mẹ tôi dẫn chị Thư tôi, lúc ấy 5 tuổi, đi dự thi trẻ em đẹp và chị tôi được chấm giải nhất. Tôi nhìn đôi mắt của bà trong ảnh và chợt nhớ tới đoạn viết của nữ sĩ Anh Thơ. Đôi mắt bà chớp chớp. Tôi chợt thấy đôi mắt bà đẹp quá ! Một đôi mắt to mênh mông, có hàng mi dài óng ả. Rồi tôi chợt thấy thương mẹ tôi quá ! Một lòng thương cũng mênh mông như đôi mắt to của bà. Nông nỗi nào mà người đàn bà trong ảnh bỗng trở thành bà Cẩm Lợi tiều tụy như thế trong tâm trí tôi ? Những năm tháng tôi sống ở Hà Nội phố Hàng Bè là thời gian tôi sống lêu lổng và làm buồn lòng mẹ tôi không ít. Bố tôi biến đâu mất ở bên Tàu, mẹ tôi suốt ngày đánh vật với các bồ cau, lũ chúng tôi lớn lên hoang như cây cỏ. Một bữa tôi thấy trên tủ chè có một chai nước màu đỏ đỏ, dán nhãn hiệu tiếng tây, lại có vẽ hình con mèo, tôi nhấp thử thấy nó ngọt ngọt ngon ngon, bèn rủ thằng Thái em tôi mỗi đứa nốc mấy ngụm. Mẹ tôi đi chợ về trông thấy hai đứa con của bà nằm lăn lóc, mặt đỏ tiá, nói lảm nhảm thì biết ngay. Bà quát người làm lấy nước chanh cho chúng tôi uống và mắng họ là từ rầy rượu phải cất trong tủ chè khoá trái lại. Thuở mẫu giáo tôi ở nội trú cùng với chị Thoa tôi trong trường bà sơ phố nhà Chung gần nhà thờ lớn Hà Nội. Trường có tường cao quét vôi vàng bao quanh nom như một nhà tù. Tôi sợ nhất là nhìn các bà sơ mặc áo đen cúi mặt đi lại trên hành lang. Họ lướt yên lặng như những bóng ma. Giờ ăn cũng không được nói chuyện. Tôi phải đứng nghiêm cùng với đám học trò mặc đồng phục đọc kinh. Lạy cha chúng tôi ở trên lời… Chúng tôi nguyện danh cha cả sáng… Tuổi thơ của tôi hết nghe tiếng niệm phật lại nghe tiếng cầu kinh. Lớn lên tôi chả biết tôn giáo nào để theo. Lên tiểu học chị Thoa sang học trường Thanh Quan còn tôi học trường Hàng Vôi. Nhưng tôi thường trốn học đi xem xi nê tặc-dzăng ở rạp Lửa Hồng hoặc giao du với đám trẻ mất dậy ở ngõ Phát Lộc. Cầm đầu bọn quỷ sứ thời ấy là tay Đỗ Bá Viễn. Hắn hơn tôi mấy tuổi, lõi đời. Hắn bầy cách cho tôi lấy cắp tiền của mẹ tôi. Cách ấy thật là thần sầu. Chả là tôi cứ bị ám ảnh bởi cái túi áo cánh lúc nào cũng xệ xuống của mẹ tôi, trong đó là chùm chìa khóa. Trong chùm ấy cái chìa to nhất, không phải là chìa bẹt mà là chìa ống có khía ở đầu, dùng để mở cái két to tướng và nặng nề. Thằng Viễn bảo tôi phải đánh cắp cái chìa khoá ấy. Nhưng mẹ tôi lúc nào cũng ôm chìa khoá trong người ngay cả lúc bà ngủ. Thằng Viễn chờ mãi thấy tôi không lấy được chìa khóa nó bèn nghĩ cách khác. Nó cầu cứu thằng Đồng con ông thợ khóa ở phố Hàng Mắm. Thằng Đồng đưa tôi một miếng gì dẻo dẻo trông như ruột bánh mì, bảo tôi đút vào lỗ khoá, chờ cho khô thì rút ra. Rồi nó đem cái khuôn bánh mì ấy về cho bố nó đúc thành chìa. Mở được két tôi hoa cả mắt lên vì trong két nhiều tiền quá. Tôi vớ đại một bó. Mấy hôm sau tôi kinh hoảng thấy mẹ tôi la lối tra khảo người làm đã lấy cắp tiền của bà. Mẹ tôi cho là mình mất tiền trong lúc đếm bạc chứ không nghĩ là ai có thể mở được cái két chắc chắn kia. Tôi tiết lộ với Viễn. Nó bầy mưu khiến mẹ tôi không bao giờ biết là mình bị mất tiền. Mỗi lần mở két, thay vì lấy nguyên bó, tôi chỉ nhón mỗi bó một hai tờ. Những bó bạc này mẹ tôi giao cho khách hàng, thường thì họ không bao giờ đếm lại trước mặt mẹ tôi, và sau này nếu có đếm thấy hụt cũng không sao, chẳng kiện cáo gì. Mẹ tôi bán buôn, làm ăn lớn, khách có biết cũng bỏ qua, xá gì mấy tờ bạc mất lẻ tẻ. Có tiền tôi ăn tiêu vung vít. Người bán hàng thấy tôi trả tiền bằng tờ giấy đỉnh thì trố mắt nhìn tôi kinh ngạc. Tiêu cho mình thì ít nhưng bao mấy thằng du côn thì nhiều. Tôi khoái nhất là bỏ tiền thuê bao xích lô nguyên ngày chở tôi và Viễn đi chơi cùng khắp Hà Nội trên những con đường rợp mát bóng cây trong tiếng ru râm ran của những con ve sầu. Hai đứa thủ hai khẩu súng cao su, bốc nhãn ăn thả dàn rồi dùng hạt nhãn làm đạn bắn lung tung lên ngọn cây. Nhưng cái thời “huy hoàng” của tôi không kéo được lâu. Một bữa mẹ tôi bắt gập tại trận tôi đứng trước tủ két mở và tước cái chìa khoá của tôi. Bà sai anh tôi (hình như là anh Triệu) đè sấp tôi ra trên chiếc sập gụ của bà dùng đuôi chổi phất trần đét mấy cái vào mông. Tôi giả vờ khóc rống lên chứ tôi thấy anh tôi đánh cũng nhẹ tay lắm (chắc hẳn anh nghĩ trong bụng mình cũng chả gương mẫu gì hơn thằng em). Dịp may đến với mẹ tôi. Năm 1951, lúc ấy bố tôi ở bên Tàu về Hà Nội đã được mấy tháng, ông quyết định vào Sài Gòn lập nghiệp. Đầu tiên bố tôi chỉ cho chị cả tôi là chị Thư đi cùng. Nhưng mẹ tôi cứ bắt bố tôi phải mang theo tôi. Đến tận bây giờ, khi tôi viết những dòng này, trong gia đình không một ai biết là mẹ tôi đã cố ý “đuổi” tôi vào Nam. Tôi rất cám ơn mẹ tôi về quyết định rất sáng suốt này của bà. Bởi vì vào Nam tôi trở thành một con người hoàn toàn khác. Năm đó tôi mười một tuổi. Lần đầu tiên trong đời tôi đi phi cơ. Lại là phi cơ của hãng Air France. Sang trọng quá ! Máy bay đến phi trường Tân Sơn Nhứt, tôi lạ lẫm đọc cái chữ “Nhứt” và hỏi chị tôi họ viết như vậy có phải là sai không. Tôi trố mắt nhìn những căn nhà nhiều từng, những tên phố tây Pellerin, Charner, Catinat, Pasteur, Richaud… và cứ nghĩ là mình đi Tây chứ không phải vào Nam. Cái gì tôi cũng thấy nó văn minh và lạ mắt. Sau này tôi nghe kể nhiều lần về những ông cán ngố ngoài Bắc sau năm 1975 vào Nam lần đầu nhìn thấy thành phố Sài Gòn, tôi nghĩ là họ chắc cũng chỉ ngố như tôi là cùng. Ba bố con tôi ở chung với gia đình bác Thụy trong một căn nhà lớn do chính phủ cấp cho nhân viên sở Bưu Điện (mà bác tôi là tổng giám đốc) số 12P đường Chasseloup Laubat (sau đổi là Hồng Thập Tự và bây giờ là Nguyễn Thị Minh Khai). Đối diện nhà bác Thụy là hai cái cao ốc 5 từng. Tôi thích trốn sang đó chỉ để chui vào cái lồng thang máy bấm nút cho nó thăng thiên lên lầu thượng rồi lại bấm nút cho nó tụt xuống… cứ thế… cho đến khi những ông tây bà đầm trú ngụ trong cao ốc biết được la lối om sòm đuổi tôi đi. Nhà bác Thụy ngăn nắp và sạch sẽ quá, các anh chị họ tôi nói năng lịch sự, cư xử quý phái không chửi tục om xòm như đám “bạn” tôi ở ngõ Phát Lộc, họ học trường Tây, khoe tôi những cuốn sách màu đẹp đẽ Tin Tin, Spiroux, Quatre Frères Dalton… Xa rồi những bồ cau khô, mùi cá mắm, hơi diêm sinh và căn nhà, con phố bẩn thỉu nghèo nàn của thành phố Hà Nội. Xa rồi mẹ tôi, bà Cẩm Lợi. Xa rồi các anh tôi vẫn còn lối sống “lạc hậu” ở miền đất Bắc xa vợi kia… Lần đầu tiên trong đời tôi thực sự sống gần bố. Tôi luôn luôn nhìn ông như ngắm một người lạ. Bởi vì cho dẫu tôi có ở sát bên ông, sống cạnh ông nhiều năm sau này trong đời thì giữa ông và tôi, và giữa ông với gia đình, hình như luôn luôn có một khoảng cách. Tôi tự hỏi vì sao không bao giờ tôi có được cái cảm giác thật gần gũi với bố như tôi đã luôn luôn có với mẹ. Nếu có thấy chút nào gần ông thì cái gần ấy chỉ trên phương diện tâm hồn. Bố tôi có gương mặt tây phương, mang nhiều nét đặc thù di truyền từ bà nội tôi. Ông có một phong thái hài hoà rất thanh nhã trong cách cư xử nó cho người ta biết, chỉ qua dáng ngoài, cái chiều sâu của con người ông. Bố tôi rất ít nói. Lúc nào cũng thấy ông lắng nghe với một cái nhìn sâu và đằm thắm. Ông lại rất chuộng sự yên tĩnh, ngăn nắp và sạch sẽ. Những gì tôi biết về ông khiến tôi hiểu vì sao ông sống được và thích hợp trong một gia đình như bác Thụy và không thể nào sống bên những bồ cau với mẹ tôi được. Năm 1954, đất nước chia đôi, mẹ và các anh tôi lục tục vào Nam. Mẹ tôi mua căn nhà số 39 chợ An Đông để ở và lấy chỗ buôn bán. Vào Nam mẹ tôi chuyên bán sỉ cau khô chứ không bán cau khô lẫn cau tươi như ở ngoài Bắc. Nguồn cung cấp cau chính của hiệu Cẩm Lợi là tỉnh Quảng Nam vì cau là thổ sản của tỉnh này. Mẹ tôi tiếp tục giao dịch với các hiệu Phước Xuân, Phước Hiên ở Hội An, nơi mà bà đã mua bán từ những năm đầu của thập niên 1940. Vào Nam mẹ tôi lại thêm một thị trường cung cấp mới là tỉnh Bến Tre. Bà ít có dịp ra Trung như dạo còn ở Hà Nội trước khi di cư, nhưng bà lại thường xuyên liên lạc với các bạn hàng ở Bến Tre, đặc biệt là bà Thái Nguyên, có khi mẹ tôi xuống ở lại đó nhiều ngày. Nhà của các bạn hàng thường ở miệt vườn, cách xa thành phố, phải đi ghe xuồng mới tới. Sau này tình hình ở tỉnh Bến Tre mất an ninh, chúng tôi cảnh giác mẹ tôi là các bạn hàng cau ở tỉnh đó nằm sâu trong mật khu của Việt Cộng nhưng mẹ tôi không bao giờ tỏ vẻ sợ hãi. Mẹ tôi không bán cau lẻ. Mua cau khô về, mẹ tôi xấy khô, đóng bao, và bán lại cho các đại lý, thường là những người Hoa ở trong Chợ Lớn. Một trong những đại lý mà mẹ tôi đã giao hảo tốt đẹp là ông Cơ Tấn. Chúng tôi xem ông Cơ Tấn như người nhà. Sự giao dịch với ông Cơ Tấn gắn liền với đời buôn cau của mẹ tôi, kéo dài từ thập niên 40 cho đến có lẽ sau cả biến cố tháng Tư năm 75. Cái sập gụ, tủ chè, két bạc và cái cân được chở từ ngoài Bắc vào. Tôi trở về với những bồ cau và làm quen lại với mùi diêm sinh đã làm tôi ho sặc sụa trong những năm tháng cũ ở Hà Nội. Cau mốc được tẩy trắng bằng khói diêm sinh. Trong một vòng nan cuốn tròn, những cái sàng cau lớn xếp chồng nhau ủ trong vải bố, dưới là cái lò nhỏ đốt diêm sinh, khói xanh từ những kẽ vải bốc ra tỏa khí độc khắp nhà. Tôi thoát được mấy năm xa lánh cái không khí bụi bặm ồn ào của chợ An Đông khi tôi theo chân bố tôi lần thứ hai lên sống trên Đà Lạt. Mấy năm sống trên cao nguyên với bố tôi là thời gian thần tiên nhất trong đời tôi. Năm 1958 khi bố tôi quyết định “xuống núi” về Sài Gòn làm báo, tôi cũng theo chân ông về sống với mẹ tôi ở chợ An Đông cho đến tháng tư năm 1975. Nghĩ lại tôi thấy tội nghiệp mẹ tôi vô cùng. Những người con của bà, trừ anh cả tôi đã sang du học bên Pháp từ hồi còn ở Hà Nội, tuy ở gần bà nhưng không ai giúp bà đúng mức trong việc buôn bán. Nhà có thuê người làm cau nhưng họ chỉ cáng đáng những việc nặng như khuân vác, xấy cau, còn việc giấy tờ, sổ sách, thư từ, mẹ tôi rất cần người giúp. Mẹ tôi lại chiều con trai nên ngại nhờ con. Mà đôi lúc có nhờ thì chúng tôi lại làm với sự miễn cưỡng, thậm chí còn gắt gỏng. Đối với con gái, nhất là bà chị cả tôi, thì mẹ con không hợp tính. Cứ nói chuyện được dăm ba câu thì hai người lại cãi vã. Chị kế tôi hợp với mẹ tôi hơn thì sau này đi Pháp và ở luôn bên đó. May mắn cho mẹ tôi là trong những năm của thập niên 70 bà có hai người con dâu ở gần là chị Triệu và nhà tôi. Mẹ tôi tín nhiệm và cưng chiều hai nguời con dâu có lẽ còn hơn con đẻ. Chị Triệu và nhà tôi, ngoài việc giúp mẹ tôi trông coi sổ sách và các công việc buôn bán khác, lại thường ngồi rủ rỉ tâm tình với bà. Đây là điều hết sức quí đối với mẹ tôi vì bà rất ít có được những phút tâm tình thân mật như thế đối với những người con. Tháng sáu năm 2005 vừa qua vợ chồng tôi qua bên Montreal dự đám cưới đứa con của anh Triệu tôi, một đêm thức giấc nửa khuya tôi nghe hai người con dâu của mẹ tôi ngồi trong bóng tối rù rì nói chuyện, hai người nhắc đến những kỷ niệm xa xưa với mẹ tôi hồi còn ở chợ An Đông trên ba mươi năm về trước. Tôi nghe được câu nói : “Mợ đối với con dâu thật không có một điểm gì để chê trách”. Trong những lần giúp mẹ tôi tính toán sổ sách tôi ngạc nhiên về trí thông minh của bà. Mẹ tôi thuộc thế hệ xưa không được đi học nhiều, trình độ có lẽ chỉ ngang mức tiểu học. Bà viết những câu văn không thành cú, chữ viết lại nghệch ngoạc như gà bới. Để tính tiền cau – những con số thành thường lớn đến mấy trăm ngàn – chúng tôi phải lấy giấy bút cặm cụi làm những con tính nhân chia. Thế mà chỉ liếc qua giá thành là bà đã gật gù đồng ý hoặc bà nói : “Con tính sai rồi, tính lại đi !” Trăm lần như một mẹ tôi nói đúng ! Tôi tự hỏi với cái trí thông minh ấy cộng với sự lanh lẹ của bà nếu mẹ tôi ra sinh ra trong một hoàn cảnh khác hoặc một thế hệ khác được ăn học thì tôi không biết là bà sẽ tiến xa đến đâu. Mẹ tôi viết thư cho những bạn hàng cau bao giờ cũng nhập đề bằng câu : “Tôi có lời hỏi thăm bà được mạnh khỏe tôi mừng…”. Biết như thế mỗi lần viết thư cho bà chúng tôi viết sẵn trước, khi bà vừa đọc xong câu đó thì chúng tôi nói ngay : “Con viết xong rồi, mợ đọc tiếp đi !”. Người mà mẹ tôi viết thư giao dịch nhiều nhất ở Hội An là bà Phước Xuân mà chúng tôi còn gọi là cô Năm Dung. Trong ba mươi năm giao dịch buôn cau với hiệu Phước Xuân chúng tôi đã viết đến cả mấy trăm lần câu Kính gửi bà Phước Xuân… Tôi có lời hỏi thăm bà được mạnh khỏe tôi mừng… Chính tôi đã dán không biết bao nhiêu con tem để gửi về địa chỉ hiệu Phước Xuân số 37 đường Nguyễn Thái Học ở Hội An. Những lá thư đưa tôi về một thành phố mà từ hồi tấm bé tôi đã nghe nói tới nhiều lần. Hội An. Làng Cẩm Phô. Họ Nguyễn Tường. Chốn ấy mơ hồ trong tâm tưởng tôi như một miền quê hương hư ảo. Năm 1964, một năm sau khi bố tôi qua đời, lần đầu tiên tôi có dịp đến tỉnh Quảng Nam thăm thành phố Hội An. Cảm tưởng đầu tiên của tôi ra sao nhỉ ? Khi đến một nơi đã được nhắc nhở hoài trong quá khứ ? Thay vì bắt gặp một quê hương trong tâm tưởng, tôi bàng hoàng nhìn thấy một Hà Nội xưa cũ của tôi. Một Hà Nội lồng vào Hội An trong từng căn nhà, từng con phố. Từ căn nhà từ đường của dòng họ ở gần chùa Cầu tôi rảo bộ trên đường Nguyễn Thái Học để tìm hiệu Phước Xuân bỗng thấy mình lạc vào phố Mã Mây vào ngõ Phát Lộc vào những con phố cổ mà tôi đã lìa xa mười ba năm trước. Trên đường tôi đi qua chùa Cầu thằng bạn cũ Đỗ Bá Viễn vẫn nhỏ bé như ngày nào giơ tay chào tôi, tôi nhìn lại căn nhà xưa của mình ở phố Hàng Bè và tất cả Hà Nội từ từ hiện ra. Rưng rưng. Bé nhỏ. Thân thương. Tôi ra đi khi tôi còn là cậu học trò tiểu học, tôi trở về “Hà Nội” đã là một giáo sư. Mười ba năm đủ xa để Hà Nội trở thành kỷ niệm. Đất nước chia đôi càng khiến ngày về trở thành vọng tưởng, khiến đường về trở thành thiết tha. Mấy ngày ở Hội An tôi ở nhà cô Năm Dung. Người con trai của cô tên là Tinh dẫn tôi đi chơi thành phố. Chúng tôi đạp xe đến cửa Đại tắm và ăn đồ biển trong những quán lá dưới bóng rợp lưa thưa của hàng cây thùy dương. Chiều đến chúng tôi ngồi trên sân thượng sau nhà nhìn con đường Bạch Đằng và dòng sông Thu Bồn lấp lánh ánh nắng. Bên kia sông nơi mà suốt đời tôi chưa từng đặt chân tới có làng Cẩm Phô. Nơi đó mới là chính quê của họ Nguyễn Tường. Nơi đó mới thực sự là miền quê hương hư ảo của tôi.
*
Bốn mươi năm đã qua kể ngày tôi đặt chân lần đầu xuống đất Quảng Nam. Bốn mươi năm sau tôi trở về Hội An với một tâm cảnh khác. Đã bao nhiêu nước chẩy qua cầu. Từ dạo đó. Tôi trở về lần này trên chuyến tàu hỏa mang theo ba bình tro của nhữngngười tôi yêu thương nhất. Đó là bố mẹ tôi và người chị cả. Nếu đường về quê cũ của bố tôi và người chị cả từ Sài Gòn đi Hội An tương đối gần thì con đường của mẹ tôi đi thật dài, dài đến nửa vòng trái đất. Tháng Tư năm 1981 anh Việt tôi từ bên Pháp trở về Việt Nam dìu mẹ tôi lên máy bay sang Pháp chữa bệnh. Mẹ tôi mất ở Paris, cùng năm. Hai mươi năm sau, năm 2001, cũng vào tháng Tư anh Việt lại ngồi trên máy bay trở về Sài Gòn nhưng lần này tay anh mang bình tro người mẹ. Bình tro của ba người được chôn cất ngày 28 tháng Tư năm 2001 tại nghĩa trang riêng của họ Nguyễn Tường ở Hội An. Cả cuộc đời buôn cau của mẹ tôi, bà Cẩm Lợi, gắn liền với chiếc sập gụ. Bà sống trên nó. Bà ngủ trên nó. Đó là một cái sập quý làm bằng gỗ lim màu nâu bóng, rắn chắc và trạm trổ. Mặt sập cao hơn đầu gối của tôi bây giờ. Thuở ấu thơ ở Hà Nội bàn tay nhỏ bé của tôi thường mân mê bốn cái chân sập bóng loáng nổi phồng lên phía trên và eo thắt lại ở phía dưới. Ngón tay nhỏ bé của tôi thường sờ dọc theo con đường rãnh có trạm những hạt gỗ nổi trông như chuỗi tràng hạt gỗ màu nâu bóng của mẹ tôi. Cái sập gụ ấy từ Hà Nội theo mẹ tôi vào Nam. Rồi cái sập ấy lại từ Sài Gòn theo mẹ tôi sang Pháp. Nay mẹ tôi trở về Hội An. Cái sập để lại ở Paris được trưng như một cổ vật trong phòng khách của một người chị họ.
Mẹ tôi không cần chiếc sập gụ ấy nữa. Bà xa rời nó như xa rời cuộc đời nhọc nhằn. Bà Cẩm Lợi đã trả xong cái nghiệp mà chúng tôi kính cẩn ghi ơn. Bây giờ nằm vĩnh viễn bên chồng mẹ tôi mãi mãi là bà Tam của chúng tôi.
Mùa Hạ, năm 2005. Nguyễn Tường Thiết
.
* Chân thành cảm tạ nhà văn Nguyễn Tường Thiết đã cho phép Amicale BPDN đăng bài này nhân Ngày của Mẹ – Fête des Mères 3-6-2012.
Thanh Tịnh là nhà văn đã có sự nghiệp dài hơn nửa thế kỷ, với số lượng trước tác dồi dào, đa dạng. Nhưng kỷ niệm bền chặt nhất mà ông để lại trong lòng người đọc là tập truyện đầu tay Quê Mẹ, 1941, với hình ảnh thơ mộng của làng Mỹ Lý (1) và buổi tựu trường trong truyện Tôi đi học. Truyện này đã nổi tiếng một thời gian dài vì được trích dẫn trong các sách giáo khoa, làm bài học thuộc lòng cho nhiều thế hệ học trò :
« Hằng năm cứ vào cuối thu, lá ngoài đường rụng nhiều và trên không có những đám mây bàng bạc, lòng tôi lại nao nức những kỷ niệm mơn man của buổi tựu trường. Tôi quên thế nào được những cảm giác trong sáng ấy nảy nở trong lòng tôi như mấy cánh hoa tươi mỉm cười giữa bầu trời quang đãng. (…)
Buổi mai hôm ấy, một buổi mai đầy sương thu và đầy gió lạnh, mẹ tôi âu yếm nắm tay tôi dẫn đi trên con đường làng dài và hẹp. Con đường này tôi đã quen đi lại lắm lần, nhưng lần này tôi tự nhiên thấy lạ. Cảnh vật chung quanh tôi đều thay đổi, vì chính lòng tôi đang có sự thay đổi lớn : hôm nay tôi đi học. » (2)
Được trích dẫn và truyền tụng, vì giá trị giáo dục : đoạn văn ca ngợi buổi đi học đầu tiên, ngày tựu trường, và đề cao việc học, văn hóa, trong giai đoạn người đi học chưa nhiều.
Về hình thức, câu văn trong sáng, cú pháp minh bạch. Từ vựng giản dị, nôm na, nhưng kỳ thật đã là phong phú vào thời điểm 1941, với những tính từ : bàng bạc, nao nức, quang đãng … tuy là thuộc vốn từ vựng cũ, nhưng cách dùng thì mới mẻ. Người xưa đã từng viết : xem trong âu yếm có chiều lả lơi, nhưng không nói : mẹ tôi âu yếm nắm tay tôi. Câu văn hay còn vì cách chấm câu, uyển chuyển, thong thả, nhịp điệu kéo dài, để đưa đến câu ngắn kết thúc : hôm nay tôi đi học.
Câu văn còn mới mẻ ở nội dung tả tâm trạng một đứa bé, nội dung này ước lệ , đặt lý tưởng người lớn vào tâm lý, ngôn ngữ trẻ con, nhưng vẫn quý hiếm, vì nó quan tâm đến trẻ con, điều mà, xưa kia, ít thấy trong văn chương. Do đó, câu văn không hiện thực nhưng có tác dụng giáo dục cao. Và nhìn chung vào sự nghiệp Thanh Tịnh thì thấy, trong bản chất, ông là một nhà giáo, trong truyện, thơ cũng như kỹ thuật “độc tấu » về sau.
Đoạn văn không hiện thực. Vì thời ấy trường học, và người đi học, còn ít. Trẻ con nhiều em sợ học, sợ đến trường ; vì đi học… là chuyện không bình thường. Huy Cận, kém Thanh Tịnh 8 tuổi, kể lại : « Tôi còn nhớ mấy ngày đầu đến nhà bác Thự tôi lười học, cứ trốn về nhà. Sau đó mẹ tôi và chú tôi phải trói tôi lại, gánh tôi bằng một cây tre như gánh lợn đi chợ, mẹ đi trước, chú đi sau, đến giao cho bác Thự » (3)
Cái làng quê Ân Phú, Hà Tĩnh của Huy Cận thì cũng na ná như làng Dương Nỗ (thật) hay Mỹ Lý (tưởng tượng), Thừa Thiên của Thanh Tịnh, việc học cũng tương tợ vậy thôi. Mà có riêng gì Huy Cận đâu ! Thế Lữ, hơn Thanh Tịnh 4 tuổi, cũng kể chuyện giông giống : « Lên tám tuổi, tôi học chữ nho. Tôi sợ phải đòn, trốn học, thầy đồ sai học sinh, có khi trói tay trói chân tôi, cho đòn càn gánh về. Tôi càng sợ. Mười tuổi mới học quốc ngữ với ông bác họ. Ông ít đánh » (4) .
Dĩ nhiên, cảnh đi học mỗi nơi mỗi khác, nhưng tâm lý trẻ em sợ việc học, ngày xưa, không chênh lệch bao nhiêu. Ai đọc Đời viết văn của tôi, nghe Nguyễn công Hoan kể chuyện đi học, thì còn nản hơn nữa.
Cũng phải nói thêm rằng cảnh « tôi đi học » ấy vẫn thường thấy trong các sách tập đọc tiếng Pháp thông dụng từ các trường Tiểu học đến Cao đẳng tiểu học, thời thiếu niên Thanh Tịnh, như một đoạn trích văn Anatole France (1844-1924) từ tập truyện Cuốn sách của bạn tôi (Le Livre de mon ami, 1885) : « Tôi sẽ kể cho các bạn nghe, hằng năm tôi nhớ lại những gì, với bầu trời thu vần vũ, những bữa cơm chiều bắt đầu phải lên đèn, và lá úa vàng trên cành cây run rẩy ; tôi sẽ kể bạn nghe, tôi thấy lại những gì khi đi ngang công viên Lục xâm bảo, những ngày đầu tháng mười, bầu trời buồn và đẹp hơn bao giờ hết ; vì đây là mùa lá rụng từng chiếc trên vai những pho tượng trắng hếu. Tôi thấy lại, trong công viên, hình ảnh chú bé con, tay thọc túi quần, lưng đeo túi sách, đi đến trường, nhảy nhót chân chim. (…) Cách đây hai mươi lăm năm, vào mùa này, mỗi buổi sáng trước tám giờ, nó đã băng qua công viên đẹp để đến lớp. Con tim có phần se sắt : hôm ấy là ngày khai trường ».
Câu chót, tôi dịch sát « c’était la rentrée », nhưng dịch thoát sẽ là : hôm nay tôi đi học, là rập khuôn theo câu văn … Thanh Tịnh.
Tác phẩm Anatole France không nổi tiếng, nhưng vẫn được đánh giá cao vì tính cách cổ điển, trong sáng và tinh tế. Ông được giải Nobel năm 1921.
Những lý luận trên đây không nhằm giảm giá tác phẩm Thanh Tịnh. Đó là những hậu quả, hay hiệu quả tự nhiên trong nghề cầm bút. Thanh Tịnh thuộc thế hệ tác gia phải vừa viết văn, làm thơ vừa học cách làm thơ, viết văn. Xuân Diệu công nhận việc thừa kế nghệ thuật của mình bằng cách nhắc lại một câu tục ngữ Pháp : anh nào trồng cải thì đã bắt chước ai đó. Trong nghề văn, vấn đề không phải là không bắt chước ai, mà làm sao không ai bắt chước được mình. Hiệu quả là không ai bắt chước được Xuân Diệu hay Thanh Tịnh.
Dù sao, nguồn hứng của Thanh Tịnh hoàn toàn không đến từ văn chương nước ngoài hay kẻ khác. Nguồn cảm hứng, thậm chí khuôn mẫu nghệ thuật của Thanh Tịnh là ca dao, dân ca. Ông nhìn làng mạc Việt Nam qua câu hát dân gian, cho nên nông thôn trong truyện, từ phong cảnh đến con người đã tái hiện dưới ánh sáng lý tưởng, gạn lọc cảnh lầm than, làm nổi bật những nét thi vị. Thi ca cấu trúc không riêng gì tập truyện Quê Mẹ, mà toàn bộ tác phẩm Thanh Tịnh, thậm chí cả cuộc đời ông, nổi chìm theo lịch sử.
Nhiều truyện ngắn của ông được cấu trúc theo một câu ca dao, ví dụ truyện Quê Mẹ dựa theo câu :
Chiều chiều ra đứng ngõ sau Ngó về quê mẹ ruột đau chín chìu
Cô Thảo nhà nghèo, và lấy chồng nghèo ở làng xa. Nhưng ngày giỗ vẫn được chồng và nhất là mẹ chồng giúp đỡ để về quê mẹ : « Sung sướng nhất là gái có chồng về nhà mẹ. Cô Thảo tuy về giỗ ông nhưng không làm gì hết. Cô vào phòng mẹ nằm ngủ cả buổi chiều, mãi đến lúc gần cúng, cô mới chịu đi ra ngoài (tr. 10).
Trong thực tế, đây là ngoại lệ. Nhưng trong thế giới Thanh Tịnh, nó là biểu tượng, là hình ảnh một xã hội không tranh chấp, giữa vợ chồng, mẹ chồng nàng dâu, nông dân địa chủ, cái cũ và cái mới. Một xã hội như thế khó bề có thực, nhưng vì tác giả nhìn đời bằng đôi mắt thi ca, nên chỉ nhìn thấy, và đề xuất những nét an bình, hạnh phúc, thi vị. Trong làng, nghèo nhất phải là người đi mót lúa, nhưng họ không cùng cực, vì chủ ruộng và thợ gặt nhân nhượng : « cách gặt của họ cũng biết điều chớ không phải vơ vét hết sạch đâu. Họ còn phải để lại ít nhiều cho người nghèo nữa » (tr.28).
Ngược lại, từ phía bên kia : « tuy người khố rách áo ôm, họ vẫn để điều nhân nghĩa lên trên tất cả. Một câu ca dao miền Trung đã tả được nỗi lòng người đi mót : (…) Tôi đến đây mót lượng từ bi Mót điều nhân nghĩa chớ mót chi lúa ngài »
Người mót lúa là cô Hoa. Cha mẹ nghèo và lấy phải chồng nghèo trong truyện Con so về nhà mạ, cũng dựa theo ca dao : « theo tục lệ, thì chỉ đẻ con so là về nhà mẹ thôi. Chứ cô sinh đẻ mấy lần, cô cũng qua nhờ mẹ cả » (tr.33), vì chồng nghèo quá, không lo kham việc vợ đẻ. Mà mẹ thì cũng nghèo thôi.
Nông thôn trong truyện là một xã hội nhân ái, nên con người nghèo khổ vẫn không khốn cùng. Được vậy, là do tấm lòng nhân ái của Thanh Tịnh đưa đến cách ông nhìn cuộc đời qua lăng kính của thi ca.
Một ví dụ khác, một truyện hay, qua hành văn nhuần nhuyễn là Tình trong câu hát, tr 90, được cấu trúc trên mấy câu hò mái nhì, chủ yếu là câu : Tình về Đại Lược Duyên ngược Kim Long Đến đây là chỗ rẽ của lòng Gặp nhau còn biết trên sông bến nào
Câu hò được cấu trúc trên một chữ « lòng » trong hai nghĩa, cả hai nghĩa đều thông dụng, là lòng sông và lòng người. Khi lòng sông phân rẽ, hai con đò phải cách xa, ẩn dụ tâm tình của lòng người cũng phải chia ly. Trên hạt nhân ấy, là một loạt ẩn dụ liên kết (métaphore filée) : sông, bến, tình, duyên, về, ngược,chỗ rẽ, Đại Lược, Kim Long, lại thêm phần vần vè.
Trên hạt nhân sẵn có này, Thanh Tịnh hư cấu câu chuyện nằm chồng lên, và xây dựng một tuyến nhân vật, với những tình tiết thích nghi. Nhân vật Đạt phải là người góa vợ đã lâu, mới cất tiếng hát « não nùng » :
Thuyền ai trôi trước Cho tôi lướt tới cùng …
Rồi đò bên kia sẽ có giọng nữ vô danh cất lên, đáp lại, cho đến khi hai con thuyền chia biệt, tình về Đại Lược, duyên ngược Kim Long …
Vũ Ngọc Phan là nhà phê bình tinh tế, đã viết về Thanh Tịnh đúng và hay, không tiếc lời ca ngợi truyện Tình trong câu hát, nhưng ông không nhận ra hư cấu này, nên đã nhận định « cảnh thực mà như mộng. Anh lái đò lo sợ mộng tan » (5) … Lẽ ra phải nói ngược lại : cảnh mộng mà như thực.
Tầm nhìn thi vị và tấm lòng nhân ái của Thanh Tịnh đã hóa giải những tranh chấp cá nhân và xã hội, thậm chí cả những va chạm giữa cũ và mới. Các lớp học chữ Hán lặng lẽ và êm thắm nhường chỗ cho trường quốc ngữ ; những chuyến đò dọc nhường khách cho tuyến đường sắt. Các phương tiện lưu thông chiếm một địa vị quan trọng trong tập truyện Quê Mẹ, vừa cấu trúc truyện kể, vừa chuyên chở biểu tượng cho một xã hội đang xê dịch, chuyển mình, đặc biệt với con đường sắt.
Cuối cùng truyện Thanh Tịnh đánh dấu một buổi giao thời, và ghi lại nhiều vẻ đẹp một thời của quê hương qua những mẫu chuyện đôn hậu, tình cảm lành mạnh và lời văn trong sáng.
Với khách tha hương, xưa và nay, tập truyện đầu tay của Thanh Tịnh, cách đây đúng 70 năm, xứng đáng với tên Quê Mẹ.
.
Đặng Tiến Orléans, 15.11.2011
* Viết cho kỷ niệm 100 năm ngày sinh Thanh Tịnh ( 12- 12-1911, Huế. Mất 17-7-1988)
.
1) Tên làng Mỹ Lý trong Quê Mẹ của Thanh Tịnh, là tưởng tượng và tượng trưng, trong ngữ nghĩa dễ hiểu, ” làng đẹp”. Về ngữ âm, hai chữ Mỹ Lý dịu dàng. Phần nào đó, nó bắt nguồn từ bài thơ Milly ou la terre natale của Lamartine mà Thanh Tịnh rất thích. Thời xưa, học sinh phải học thuộc lòng, từ cấp tiểu học. 2) Thanh Tịnh, Quê Mẹ, nxb Đời Nay, 1941, Hà Nội. Trích theo lần tái bản, tr.85, nxb Văn Học, 1983, Hà Nội. Có thể xê xích đôi chữ so với bản 1941 mà chúng tôi không có. 3) Huy Cận, Đời và Thơ, tr. 610, nxb Văn Học, 1999, Hà Nội _-hà văn, 1991, Hà Nội 5) Vũ Ngọc Phan, Nhà văn hiện đại, 1942, quyển Tư, tập hạ, in lại, tr. 1109, nxb Khoa Học Xã Hội, 1989, Hà Nội.
Những cựu học sinh có học thầy Quyến ở trường trung học Cường Để không thể nào quên được thầy vì thầy không giống bất cứ một vị giáo sư nào. Riêng tôi, tôi sẽ nhớ thầy cho tới ngày tôi lìa đời này.
Bề ngoài thầy Quyến trông có vẻ “tồn cổ” như một ông đồ Tây học và có thể dưới con mắt của một vài người thầy có vẻ lập dị. Thầy có phong thái của một người ngang tàng bất cần đời. Nhiều lần thầy mặc áo the, đội khăn đóng đạp xe đạp đi dậy học hay dự các buổi lễ lạc trong trường. Miệng nhai trầu bỏm bẻm. Luôn luôn có cặp môi cắn chỉ hồng nước trầu. Trong lúc để lũ học trò làm bài, thầy thường ngồi nhìn qua khung cửa sổ thả hồn về một thế giới riêng tư, kỳ bí nào đó của thầy. Thỉnh thoảng thầy rùng mình, lắc đầu như chợt tỉnh dậy quay về với thực tại là lũ học trò đang ngồi trước mặt. Cặp mắt to nhiều lúc trông như cười rất tinh quái, nhất là lúc thầy nhéo. Thầy không la, không mắng, không phạt nhưng có một cái nhéo rất độc đáo. Hai ngón tay véo vào da thịt từ từ nhấc lên, vặn qua vặn lại, cái móng tay để dài kiểu thầy đồ nho bấm xuống. Bấm xuống. Bấm xuống rất từ từ cho cái đau có thì giờ nhận biết ra. Đứa nào bị thầy nhéo sẽ nhớ đời.
Thầy dậy tôi Việt văn năm đệ nhị B ban toán. Không biết có phải thầy có cảm tình với tôi hay không như có đứa bạn ghen tị cho là vậy, lúc nào bài luận văn của tôi cũng được điểm cao đứng vào hàng nhất nhì. Những bạn cùng lớp không ưa thầy bảo thầy chấm bài chỉ đọc đoạn mở đầu và đoạn kết luận rồi đo gang xem bài luận dài ngắn bao nhiêu và dựa theo đó mà cho điểm. Có một tên bạn đã thử viết bài luận và ở đoạn giữa chép vào một bài địa lý nhưng bị thầy khám phá ra, thầy xổ toẹt và cho một gậy. Thầy không cho số không, không phạt, chỉ khoanh tròn phần bài viết về địa lý bằng mực đỏ rồi phê ở ngoài lề bài luận “lạc đề”. Hóa ra thầy cũng đã có kinh nghiệm rồi. Thành thử nếu quả đúng là sự thật như nhiều tên bạn nói, thì nếu không đọc kỹ khúc giữa bài luận đi nữa, thầy cũng đọc lướt qua để đề phòng lũ học trò quỉ quyệt chơi xỏ, gài bẫy mình.
Tôi học rất khá. Tháng nào cũng đứng nhất nhì trong lớp. Sáng thứ hai chào cờ mỗi tuần tôi thường được vinh dự kéo cờ. Mỗi sáng được đi lấy sổ điểm từ phòng lao công đem lên lớp học. Cuối năm tôi được Phần Thưởng Danh Dự Toàn Trường do tổng thống Ngô Đình Diệm tặng. Năm đó tôi còn được phần thưởng hạnh kiểm. Ngoài ra tôi còn được tuyên dương trong đêm phát phần thưởng nữa. Lý do là năm đó nhà trường tổ chức trại hè ở bãi biển Đại Lãnh. Tôi không ăn được món cá nhám nấu canh cà chua của trại nấu. Sau bữa ăn, buổi tối nhiều anh em trong trại bị trúng độc thức ăn, đau bụng, ói mửa, đi tiêu chẩy. Chỉ còn tôi và mấy anh em không ăn canh cá là không bị ngộ độc. Chúng tôi cả đêm lo chăm sóc cho các bạn bè bị bệnh.
Học ở Qui Nhơn tôi ở nhà chị gái và ông anh rể. Trước vài ngày lên đường vào Nha Trang thi Tú Tài I, chị tôi sanh một cháu trai ở nhà bảo sanh của một bác sĩ. Về nhà chị tôi bị lên cơn sốt. Đến thăm bác sĩ trở lại, bác sĩ bảo không sao. Ba ngày sau chị tôi lên kinh giật, người co rút uốn cong khỏi mặt giường. Chở chị tôi vào nhà thương, bác sĩ chẩn đoán bảo chị tôi bị phong đòn gánh lúc cắt cuống nhau cho cháu bé. Vì biết quá trễ, chị tôi qua đời. Tiễn chân chị tôi ra nghĩa trang xong tôi lên tầu hỏa vào Nha Trang đi thi. Kết quả là tôi thi rớt kỳ thi đó. Thật là khó tin được, học ban Toán mà tôi giải lầm một cái phương trình bậc hai thật là đơn giản. Tôi đã viết nhầm -b/a thành -b/2a. Bài toán có 8 câu hỏi. Tám cái đáp số của tôi chỉ bằng một nửa của mọi người. Nếu vị giáo sư làm giám khảo nào đó có lòng vị tha cho tôi một nửa số điểm của người khác thì tôi cũng vẫn đậu được vì khi xem điểm tôi chỉ có thiếu một hai điểm để đậu hạng thứ mặc dù bài toán bị số không.
Thi rớt, họ hàng khuyên tôi phá ngang đi thi vào sự phạm làm thầy dậy tiểu học, thi vào cán sự y tế, cán sự thương mại… Nhưng tôi thấy mình phá ngang thì “uổng” quá vì mình học không đến nỗi tệ. Tôi quyết định học “đúp” lại một năm nữa.
Học lại thật nản. Buồn. Ê chề. Cái gì mình cũng “biết rồi khổ lắm nói mãi”, cái gì cũng là một thứ “déjà vu”. Tôi ngồi ở bàn chót thay vì ở bàn đầu như năm trước. Được một cái là giáo sư nào cũng thương nên để tôi yên thân, không bao giờ bắt lên trả bài. Nhiều buổi học dài lê thê, không biết làm gì tôi ngồi làm thơ. Nhiều người ghen ghét, bây giờ có dịp nói xấu, bôi bẩn tôi. Tôi vẫn ngang nhiên tự tại. Làm thơ giúp tôi khuây khỏa :
Bởi ông thi rớt, ông không đỗ, Không đỗ, ông mới ngồi đây, Ngồi đây, ông mới làm thơ ngổ. Thơ ngổ, ông ngâm mặc chúng mày.
Và “Có Những Giờ Học”
Có những giờ học, Ông thầy nói những lời câm, Những dòng phấn viết tím bầm. Con chim độc tấu dương cầm. Có những giờ học, Vọng từ bên song, Tiếng giai nhân khóc. Vỡ cả chiều Ngang chiều Dọc. Có những giờ học, Ông thầy nằm ngủ trên bàn. Giấy mực đi về dã man. Linh hồn gẫy thành cạnh góc. Có những giờ học, Lớp học là công viên. Ông thầy là tượng đồng, tượng đất. Loài yêu thương đang rót mật.
Có những giờ học, Bàn ghế trở về cây. Bạn bè trơ thành đá. Không gian mất một chiều dầy. . . . . . .
Một hôm trong lớp đang ngồi thả hồn thơ qua cửa sổ. Giật mình thấy thầy Quyến đã đứng ngay bên cạnh. Không biết thầy có thấy mấy câu thơ tôi đang làm nháp hay không. Tôi co người thủ thế chờ cái nhéo “ác ôn” của thầy. Nhưng thầy chỉ đặt nhẹ tay lên vai tôi. Thầy nói thật nhỏ chỉ đủ cho tôi nghe thôi “Cuối tuần này, em ghé lại nhà thầy”. Nói xong thầy trở lại bàn giáo sư, ngồi nhìn ra khung cửa sổ trở về với thế giới của thầy. Như không có chuyện gì cả.
Cuối tuần đó tôi đến nhà thầy ở đường Võ Tánh. Thầy đưa tôi lên cái gác xép, thế giới riêng tư của thầy. Sách vở chiếm gần hết cái gác xép. Sách báo chữ Việt, chữ nho và ngoại quốc ngổn ngang. Thầy pha trà và cho tôi ăn bánh ngọt trong khi đó thầy têm cho mình miếng trầu. Tôi ngồi chờ. Không biết chuyện gì sẽ xảy ra. Ở nhà, thầy mặc quần áo ta trông như một đạo sĩ, một tiên ông. Trên chiếc bàn thấp quyển sách về Dịch lý đang mở ngỏ. Chắc thầy đang đọc. Thầy nhai trầu bỏm bẻm. Tôi nghe rõ tiếng nhai chóp chép. Ăn xong miếng trầu. Nhổ bã vào chiếc ống nhổ đã gần đầy nước trầu. Thầy nhìn vào mắt tôi một lúc. Đôi mắt thầy lúc này tinh anh lạ thường. Đôi mắt không còn thấy lờ đờ, xa vắng như thấy hàng ngày trong lớp học.
-Thầy muốn nói với em chuyện này. – ?. -Thầy muốn em soạn học đi thi Tú Tài Pháp.
Tôi chưng hửng. Thầy nói tôi soạn học đi thi Tú Tài Pháp ? Một tên học sinh học ban Toán trường Việt mà lại nhẩy qua thi Tú Tài Pháp. -Em cứ nghe theo lời thầy. Em có khả năng … Thầy biết.
Thầy quay vào đống sách. Rút ra mấy quyển sách Pháp dầy cộm trông như những quyển từ điển đưa cho tôi. Trong đó có những quyển nghị luận luân lý, văn chương, sử ký … Cầm đống sách thầy trao cho ra về. -Em xin đa tạ thầy, nhưng em không biết có học nổi không… -Hãy tin thầy. Thầy biết em hơn ai hết.
Tôi vẫn không tin là mình có khả năng đi thi nổi Tú Tài Pháp. Nhưng có một điều kỳ lạ, kể từ hôm đến nhà thầy về tôi như được cho uống một liều thuốc hồi sinh trở lại. Tôi hân hoan vì ít ra cũng có một người biết mình, hiểu mình mà người đó lại là thầy mình. Tâm thần không còn bị sa sút đến độ chán đời muốn buông xuôi tất cả nữa. Tôi từ từ tìm lại được niềm yêu đời. Tôi nhìn những bạn học, những bóng hồng ngoài hành lang, trong sân trường lại tìm thấy lại niềm vui sống tuổi học trò trở lại. Lúc đó bên lớp Nhị A có những người đẹp như Minh Châu (hiện giờ là dược sĩ ở Sydney, Úc châu), Tố Mai (Na Uy)… Người đẹp Minh Châu đi xe đạp như Phù Đổng thiên vương cưỡi ngựa sắt. Tôi có chiếc xe đạp “cuốc” của Pháp hiệu “Cigogne” (con Cò) vậy mà cũng không tài nào đạp xe bắt kịp được. Người đẹp lấy biệt hiệu là Tố Mai hát hay và làm thơ cũng có hạng. Tôi có làm một bài thơ nhan đề Tối Mai chọc ghẹo cái tên Tố Mai như sau :
Người đâu hứa hão, để chờ hoài. Hết Tối Mai rồi lại Tối Mai ! Này tớ bảo cho nường biết nhé. Phòng khuê, nhớ khóa kỹ then cài.
Tôi vẫn ngán và ngại soạn học để đi thi Tú Tài Pháp, vào lớp tôi vẫn ngồi lơ tơ mơ làm thơ. Thầy thường xuống chỗ tôi ngồi. Không nói một lời nhưng đọc trong ánh mắt thầy tôi biết thầy hỏi tôi đã soạn học thi Tú Tài Tây chưa. Cuối cùng tôi gật đầu đại cho thầy an tâm. Hôm đó tôi về dở mấy quyển sách Pháp ra đọc. Thấy cũng hiểu được. Tôi liên lạc vối anh tôi ở Đà Nẵng nhờ ông anh lấy hộ ngày giờ thi, chương trình học và mua sách giáo khoa Pháp ở trường Collège Français de Tourane. Chỉ còn có vài tháng nữa là có khóa thi Tú Tài Pháp. Tú Tài Pháp thi trước Tú Tài Việt vài tháng. Khi có chương trình rồi tôi bắt đầu học “gạo”, đúng ra phải nói là học “bánh mì baguette”. Từ đó giờ Việt văn của thầy tôi mang quyển Nghị Luận Luân Lý Dissertation Morale của thầy cho vào lớp ngồi nghiền ngẫm.
Nhìn thấy tôi học soạn thi Tú Tài Pháp, đôi mắt thầy long lanh tràn đầy hạnh phúc. Rồi tới ngày thi, tôi cũng liều vác bút đi thi. Tôi đậu ngay Tú Tài Pháp phần thi viết. Nhưng phần thi oral mới là phần tôi run và sợ. Các ông Tây bà Đầm nói tiếng Pháp như gió. Nhưng không ngờ tôi vào thi oral thật là xuông xẻ. Tin tôi đậu Tú Tài Pháp nổ ra như tin tôi thi rớt năm trước. Tôi đến tạ ơn thầy. Thầy nắm tay tôi chỉ nói “Bây giờ thì em tin mình rồi chứ ? Thầy có con mắt nhìn người”.
Ba tháng sau, tôi không học một chữ, lại vác bút đi thi Tú Tài Việt và tôi đậu không một chút khó khăn. Vì đậu Tú Tài I Pháp tôi theo học chương trình Pháp luôn. Tôi về ở nhà ông anh ở Đà Nẵng để học trường College Français de Tourane. Ở đây không có classe terminale ban Toán tôi đành học ban Vạn Vật. Năm sau tôi đậu Tú Tài II Pháp không mấy khó khăn. Vì học ban Vạn Vật trường Tây nên khi lên đại học tôi chỉ còn một vài chọn lựa. Một là ra Huế học trường Đại Học Sư Phạm ban Pháp Văn, hai là vào Saigon học Y Khoa hay Dược Khoa.
Biến cố bạn bè bị ngộ độc thực phẩm ở Đại Lãnh và nhất là cái chết oan uổng của chị tôi khiến tôi quyết định thi vào Đại học Y Khoa. Tôi thi vào Năm Dự Bị Y Khoa bằng chương trình Pháp tức dùng ngôn ngữ Pháp (Français, langue véhiculaire) và đậu ngay. Nếu tôi không rớt Tú Tài I ban Toán thì chắc sẽ học đệ nhất ban Toán rồi sẽ lên đại học đi theo ngành khoa học vào học trường Đại Học Khoa Học. Nếu tôi không thi vào Y Khoa bằng chương trình Pháp thì khó lòng tôi có thể lọt được vào cổng trường Đại Học Y Khoa Saigon vì chắc chắn tôi không thể nào cạnh tranh lại nổi với các học sinh ban A nổi tiếng là học rất gạo của trường Việt.
Sau khi vào đại học, tôi chỉ có một dịp về thăm lại Qui Nhơn và chỉ gặp lại thầy Quyến có một lần. Lần đó thầy gầy và già đi nhiều. Trông thầy lúc này như một đạo sĩ khổ hạnh. Chỉ còn ánh mắt tinh anh. Cái ánh mắt thầy nhìn tôi khác hơn những ánh mắt thầy nhìn người khác. Đôi mắt của một sư phụ nhìn đệ tử đầy trìu mến. Về sau, tôi thường hỏi thăm Nguyễn Hữu Ân, cháu của thầy, về thầy cho tới khi tôi và Ân đi vào cuộc sống thời chiến tranh không còn gặp nhau nữa.
Tôi vẫn ân hận là không biết những giờ phút cuối cùng đời thầy ra sao.
Thầy đã có một ý nghĩ và một con mắt nhìn tôi khác thường và đã giúp tôi làm một chuyện khác thường. Nếu không có thầy “có con mắt biết nhìn người”, thì đời tôi sẽ đi về đâu ? Thầy đã thay đổi hẳn vận mạng đời tôi.
Hôm nay viết mấy dòng này thành thật nghiêng mình tri ơn Thầy. Chắc chắn, con sẽ nhớ Thầy cho tới ngày con lìa đời. Những gì con thực hiện được ở đời này phần lớn là do công ơn Thầy.
Nói đến Huế, người ta thường xưng tụng “Huế đẹp và thơ” là tên một tập thơ của Nam Trân (1939) với những hình ảnh đặc sắc Huế.
Thuyền nan đủng đỉnh sau hàng phượng Cô gái Kim Luông yểu điệu chèo
“Thuyền đủng đỉnh” phải là con đò Huế, “yểu điệu chèo” phải là cô gái sông Hương. Nhưng Nam Trân Nguyễn học Sỹ ,1907-1967 là “học trò trong Quảng ra thi ; thấy cô gái Huế chân đi không đành“, chứ không phải là người Huế. Giới thiệu Nam Trân, Hoài Thanh đã nhận xét : “tả cảnh Huế chưa ai bằng Nam Trân” nhưng tác giả Thi Nhân Việt Nam (1942) lại có nhận xét : “Huế đẹp, Huế nên thơ. Ai chẳng nói thế ? Ai chẳng thấy thế ? Nhưng sao hình ảnh Huế trong thi ca lại tầm thường thế ? có lẽ cảnh Huế quá huyền diệu, quá mơ màng không biết tả thế nào cho thoát sáo”.
Nói thế là khe khắt vì thơ về Huế đã và đang có nhiều bài hay, nổi tiếng như bài Đây thôn Vỹ Dạ của Hàn Mặc Tử (1912-1940) người Quảng Bình :
Sao anh không về chơi thôn Vỹ Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên Vườn ai mướt quá xanh như ngọc Lá trúc che ngang mặt chữ điền
Cảnh Huế đã gây rung động nhiều lòng người phương xa ghé lại, làm quan, đi học hay du lịch. Nguyễn Du đã làm quan kinh sư, có người cho rằng không gian Phú Xuân đã góp âm hưởng vào truyện Kiều. Điều này không chắc, nhưng Nguyễn Du đã làm nhiều thơ về Huế, như bài Thu Chí (1805) :
Hương Giang nhất kiến nguyệt Kim cổ chứa đa sầu
dịch
Sông Hương trăng một vầng Kim cổ sầu mang mang
Thơ Huế của Nguyễn Du chủ yếu nói lên tâm sự bất đắc chí và hoài cổ, chứ không chủ tâm tả cảnh núi Ngự sông Hương. Thơ Cao Bá Quát cũng vậy. Nổi tiểng nhất là câu thơ tả sông Hương (1809) :
Vạn chướng như bôn nhiễu lục điền Trường giang như kiếm lập thanh thiên
dịch
Ruộng biếc núi vòng như chạy quanh Sông dài như kiếm liếc trời xanh
Toàn bài tám câu mang tâm trạng nhớ nhà. Bài tứ tuyệt Hương Giang tạp vịnh tả cảnh thành phố, nhưng chủ yếu là để nói lên chí khí ; và hay nhất ở hai câu sau :
Copyright Cine 09
Nhất đái duyên giang giáp đệ hùng Ngũ quân khai phủ chiếu tây đông Vinh khô tứ thập dư niên sự Chỉ hữu hà hoa tự cựu hồng.
dịch . Gác tía lầu son lóa mé sông Này dinh này phủ ngất tây đông Bốn mươi năm ấy nào vinh nhục Mà đoá sen xưa vẫn đỏ hồng
Dọc sông dãy dãy lâu đài, Này đồn, này phủ, đông tây đối đầu. Bốn mươi năm, những bể dâu Màu sen năm cũ vẫn màu hồng xưa
Hơn trăm năm sau, nhà nho Phan Bội Châu có bài phú vịnh phong cảnh Huế (1926) với câu thơ nổi tiếng về con sông Hương “Hương ơi, e phải mày không – Sông ấy hoá ra mình có“.
Nội dung bài phú dài diễn tả niềm đau đớn của người dân mất nước chứ không phải để tả phong cảnh cố đô, nơi Phan Bội Châu, ông già bến Ngự, bị giam lỏng.
Thời kỳ Phan Bội Châu bị quản thúc ở Huế cũng là thịnh thời của thơ mới. Hai nhà thơ mới chịu nhiều ảnh hưởng Huế vì ăn học tại cố đô là Xuân Diệu và Huy Cận. Xuân Diệu (1917-1985) chỉ học ở Huế một năm, năm cuối bẩc trung học (1936-1937) nhưng đúng vào thời anh hoa phát tiết, năm 1936 bắt đầu có thơ đăng báo và trái tim non trẻ đã rung động sâu xa trong tiềm năng sáng tạo, qua tập Thơ Thơ (1938). Huy Cận, 1919-2005, bạn thân của Xuân Diệu, thời đó ăn học ở Huế, đã kể lại :
“Xuân Diệu gặp Huế là gặp người và cảnh đồng điệu. Anh rất mê ca nhạc Huế và anh biết hát, hát khá hay, hầu hết các bài ca Huế, từ Nam ai, Nam bằng, tứ đại cảnh đến phú lục, lưu thủy, kim tiền, bình bán, phẩm tiết … đến các điệu hò mái nhì, mái đẩy (…). Việc anh thuộc ca nhạc Huế có ảnh hưởng tốt cho sự phát triển của thơ anh, chính anh cũng nhận rõ thế “. (Bài thơ Thôn Vĩ, Huế,1987, tr. 53),
Tại hội nghị Văn Nghệ ngày 13-4-1949, Xuân Diệu trổ tài : “Xuân Diệu hò Huế, Xuân Diệu vuốt một câu ca dao như ta nâng một giải lụa … Những tiếng reo hò ở dưới : nữa, hò nữa ! xen vào những tràng pháo tay … “ (Nguyễn Huy Tưởng kể lại, báo Văn Nghệ, Việt Bắc, số 11-12 tháng 4/5/1949).
Bài Nguyệt Cầm của Xuân Diệu là hồi âm những giai điệu hồi quang của ánh sáng Huế lung linh trong thơ :
Trăng nhập vào dây cung nguyệt lạnh Trăng thương, trăng nhớ, hỡi trăng ngần ! Đàn buồn, đàn lặng, ôi đàn chậm Mỗi giọt rơi tàn như lệ ngân
Mây vắng, trời trong, đêm thuỷ tinh Linh lung bóng sáng bỗng rung mình Vì nghe nương tử trong câu hát Đã chết đêm rằm theo nước xanh.
Người ta thường ngân nga thơ Xuân Diệu mà quên rằng văn xuôi Xuân Diệu cũng xuất sắc như tập Phấn Thông Vàng với một số bài viết tại Huế, như đoạn tả cảnh Nam Giao :
“Chiều lên dần. Tôi càng đi, trời càng tối. Con đường Nam Giao thẳng mà không bằng , tôi khởi đi trong ánh sáng và tôi tới dần trong bóng tối, tựa hồ bên thành phố Huế là ngày, bên đàn Nam Giao là đêm … Vâng, chiều lên dần ; chiều không xuống … “ (Thương vay, tặng Huy Cận, Phấn Thông Vàng, 1939).
Xuân Diệu quê nội Nghệ An, quê ngoại Bình Định, “cha đàng ngoài mẹ ở đàng trong hai mái đèo ngang một mối tơ hồng” (1960). Còn Huy Cận quê Hà Tĩnh ; và Xuân Diệu đã viết : “Huy Cận còn có một quê hương thứ hai, là Huế”, vì Huy Cận đã sống và ăn học tại Huế mười hai năm (1927-1939) học từ lớp ba đến tú tài, đến khi nguồn thi hứng đã định hình. Rất nhiều bài trong tập Lửa Thiêng (1940) đã được khai từ hay khai trí tại Huế, như bài Chiều Xưa đăng trên báo Ngày Nay, số Tết 1938, cùng một khung với Cảm Xúc của Xuân Diệu
Chiều gieo theo gió veo hồ, Đèo cao quán chật, bến đò lau thưa. Đồn xa quằn quại bóng cờ, Phất phơ buồn tự thời xưa thổi về
Ngàn năm sực tỉnh, lê thê Trên thành son nhạt, _ chiều tê cúi đầu… :
Lưu ý biên tập :giữa câu cuối, có dấu phẩy thêm gạch ngang. Dấu phẩy thuộc cú pháp, syntaxe, gạch ngang thuộc thi pháp, poetique. Bút pháp này Huy Cận lĩnh hội từ Rimbaud. Giữa những cặp lục bát, có khoảng trắng. Mỗi cặp lục bát là một khổ thơ, strophe.
Cho mãi đến cuối đời, 70 năm, sau Huy Cận vẫn chung thuỷ với nguồn thơ thưở nhỏ. Thơ Huế của Huy Cận về sau rõ nét, hiện thực và nhân đạo, như bài Phố Đông Ba làm 1972 :
Phố Đông Ba của tôi ngày bé Có ông cả Soạn đánh cờ cao Lắm khi một buổi đi vài nước Để bạn bè vây nghĩ nát đầu
Ông lại đàn hay. Nguyệt tiếng tơ Hồn ve dắn dỏi dưới trăng mờ Mòn tay tài tử dăm cung nhấn Nghe cả trời thu nức nở mưa
Bài thơ mô tả chính xác đường Đông Ba một khu phố nghèo ở Huế những năm 1930 với sinh hoạt thời đó, nhất là về mặt văn nghệ dân gian. Huế giàu chất thơ không phải chỉ nhờ những nét đẹp đài các bên ngoài :
Hai hàng, tôn nữ cười trong nón. Thơ mở lòng ra đón bóng yêu (thơ Quỳnh Dao)
hoặc :
áo tím qua cầu thơ cũng hết mùa thu (thơ Trang Châu)
Huế còn giàu chất thơ trong nội dung đời sống, trong tâm thức âm trầm về thân phận con gnười vá số phận dân tộc, những ám ảnh mà Huy Cận đã ghi lại được trong bài Phố Đông Ba
Cuối phố gốc cây chiều chủ nhật Là ông xẩm chợ với hai con “Kinh đô thất thủ” vè quen thuộc Lớn nhỏ ngồi nghe nặng trĩu hồn
“Thất thủ Kinh Đô” là một bài vè, dài khoảng 2000 câu, kể lại cuộc phản công quân sự của triều đình Huế đêm 4/7/1885 : Thất bại, vua Hàm Nghi phải bỏ Huế ra Quảng Trị. Cuộc thất bại của triều đình là bi kịch của đất nước nằm chồng lên thảm cảnh của nhân dân Huế.
Tuy nhiên bên cạnh những hình ảnh nhức nhối ấy, Huế vẫn để lại trong hồn thơ Huy Cận những kỷ niệm dịu dàng, mượt mà như giòng sông phẳng lặng trong Huế Vấn Vương (1978) Xanh mượt bờ xanh Huế Huế ơi ! Cỏ cây đây đã hoá vườn trời Người đi bước nhẹ không nghe tiếng Mà nặng lòng yêu biết mấy mươi. Huế hoa thiên lý mùi hương thoảng Huế tím chiều thu giậy ước mơ Mái đẩy câu hò ngân ánh nước Sông không trôi bởi luyến lưu bờ Tuổi nhỏ đời ta Huế giữ không ? Cho ta xin lại tháng năm hồng Cho ta trở lại ngày xưa cũ Mới hái mùa thơ giữa độ bông
Tình bạn tình yêu Huế khéo ươm Hoa xuân trái đậu tháng năm trường Bâng khuâng nay nhện chiều giăng lưới Bảng lảng lòng ai Huế vấn vương …
Cpyright Vink 2008
Đề tài văn thơ mênh mông. Chúng tôi trích dẫn tác phẩm Xuân Diệu – Huy Cận vì mảng thơ Huế chiếm phần quan trọng – ít nhất là trước 1945 – trong sự nghiệp hai ông. Một mặt hai ông tiếp thu vào cảm xúc, và phản ánh lại khá rõ nét những âm sắc của cố đô, mặt khác tư liệu về họ khá đầy đủ, cho phép chúng ta lý luận chính xác. Còn nhiều bài khác của tác giả khác về Huế, chúng tôi sẽ có dịp bàn thêm vào dịp khác.
Có tác giả chỉ ghé qua Huế một lần và cũng để lại tác phẩm hay như Nguyễn Bính 1918-1966, với tập thơ Mười hai Bến Nước (1942) gồm nhiều bài nổi tiếng như : Xóm Ngự Viên, Giời Mưa Xứ Huế, …
Đặc biệt nhạc sĩ Văn Cao 1923-1995, chỉ một lần ghé Huế, nhưng đă tiếp thu nhiều rung động nghệ thuật. Ông kể lại : “Huế là một nguồn sáng tạo của tôi trong những năm 1940. Thơ và nhạc là điều tôi tìm nguồn từ ấy. Có lẽ lịch sử và cảnh vật của cố đô có những điều gây cảm xúc cho sáng tạo. Có lẽ sự sáng tạo của người dân Huế giúp tôi làm được âm nhạc và thơ”. (Bài Thơ Thôn Vỹ, 1987, tr.152). Đây là tiếng đàn trên sông Hương mà nhà thơ Văn Cao đã ghi lại, trong bài nhạc Thiên Thai nổi tiếng. Và trong thơ :
Em cạn lời thôi anh dứt nhạc Biệt ly đôi phách ngó đàn tranh Một đêm dàn lạnh trên sông Huế Ôi nhớ nhung hoài vạt áo xanh …
Chúng ta đã cùng nhau nhìn lại mảng thi ca về Huế trước 1945 của những tác gia không phải người Huế. Sau này, có dịp, ta sẽ tìm hiểu thêm về một xứ Huế gần đây hơn, thời sự hơn, với những sôi nổi và đau thương chưa lắng xuống.
Vì không phải chỉ có một Huế đẹp và thơ xa xôi trong mộng tưởng. Vì còn một Huế khác, đau thương và khốn khó, như trong ca dao xứ Huế :
Ví dầu đèn tắt, có trăng, Khổ thì em chịu, biết mần răng đặng chừ..
.
Nhân chương trình Lễ Hội Huế 2010, tôi muốn gửi tấm lòng thiết tha của người hải ngoại về với mảnh đất Huế đau thương và con người Huế yêu thương, về một vùng văn hoá giàu có và những con người khốn khó.
Với hy vọng rằng niềm mừng vui hôm nay của Festival sẽ không tàn theo những trận pháo bông, sẽ không lịm tắt theo lời ca điệu múa.
Hy vọng rằng Festival không dừng lại ở màu sắc phương xa, gọi là exotic, của những nền văn hoá đã phôi pha hay đang hấp hối.
Và hy vọng rằng Festival Huế 2010 sẽ thổi bùng lên ngọn lửa văn hoá Phú Xuân chưa bao giờ đuối sức, và thổi bùng lên tiềm năng văn hoá hùng tráng của đất Huế và người Huế, một bộ phận hữu cơ của đất nước Việt Nam, một âm sắc đặc biệt trong nền văn minh thế giới.
Gửi Huế niềm tin thiết tha và da diết.
Đặng Tiến, Viết lại, Orleans, 01 tháng Tư, 2010. Ngày giỗ Trịnh Công Sơn.