Catégories
Prose

Bệnh Nhân Trên Tầng 10

Tống văn Thụy (BP71)

.

Lần đầu tiên, chúng tôi đến Bệnh Viện Ung Thư Đà Nẵng. Từ trung tâm thành phố, theo con đường chạy dọc Vịnh Đà Nẵng hướng về Hòa Minh, từ xa, Bệnh Viện Ung Thư Đà Nẵng (BVUTĐN) có nét phảng phất Trung Tâm Nguyên Tử Lực Đà Lạt với tòa nhà trung tâm hình tròn, cạnh những hình khối vươn cao, mặt tiền kiến trúc gắn kính trên vùng ngoại ô đang đô thị hóa.

Không gian thoáng đãng. Bệnh viện sạch tinh tươm. Bãi giữ xe miễn phí ở tầng hầm. Nhân viên thân thiện và nhiệt tình hướng dẫn bấm thang máy lên tầng 10 tìm ” Khoa Tạo Máu “. Mắt tôi kèm nhèm đọc nhầm ” Khoa tạo mẫu ” ! Trong phòng bệnh rộng thênh thang, bốn giường liền kề với nhà vệ sinh khép kín, người bệnh duy nhất lặng lẽ ngồi gõ vi tính. Buổi sáng thật tĩnh lặng.

Bệnh nhân tiếp chúng tôi nơi cuối phòng. Qua bao đợt hóa trị, ông vẫn còn phong độ, nhanh nhẹn, đôi mắt tinh anh và nụ cười trên môi. Vẫn tinh thần trào lộng như ngày nào, ông mở đầu câu chuyện :
Tôi được nằm ở tầng 10, tầng cao nhất bệnh viện, gần với Nước Trời. ” Ông là linh mục An Tôn Nguyễn Trường Thăng.

Cuối phòng bệnh có hành lang nhìn về phía Tây Đà Nẵng. Xa xa, đồi núi trập trùng, có đoạn dãy Trường Sơn ăn ra tận biển : Hải Vân. Vùng bán sơn địa nối tiếp, núi đồi đan xen đồng bằng. Quê nhà người bệnh ở đó : Bàu Nghè, An Ngãi, Hòa Sơn, Hòa Vang, Đà Nẵng. Như tên gọi, cách đây khoảng 40 năm, Bàu Nghè là vùng đất trũng sâu ngập nước, nguồn cá tôm cho dân làng, nguồn nước cho ruộng đồng. Mùa hạ, sen nở trắng hồ. Trên cao xanh mướt đồi chè. chè Phú Thượng, An Ngãi nổi tiếng một thời. Thế rồi, cơn lốc đô thị hóa mươi năm gần đây cuốn phăng nương rẫy, ruộng vườn, bàu-hồ… ném những người nông dân mất đất ra mặt tiền phố chợ, bơ vơ trong cái nắng chói chang tháng sáu. Nắng dát vàng bờ vai tượng Phật màu trắng tinh tuyền chùa Quang Minh gần đó. Ngài lặng lẽ ngồi nhìn núi đồi lở lói màu đỏ quạch, nham nhở dấu vết đào bới san lấp công trình, chiêm nghiệm lẽ có và không.

Ngày xưa, dải đất nầy thuộc châu Lý, vùng Chiêm động, nguồn Thăng Hoa, phía Nam Hải Vân có sông Cu Đê xuôi từ núi ra biển. ” Mây đen nổi ở Sơn Trà là điềm có mưa, cầu vồng hiện ở Cu Đê là sắp có lụt “. Bán đảo Sơn Trà phía Đông và sông Cu Đê phía Tây là hai điểm dự báo thời tiết của người xưa. Thời Trịnh-Nguyễn-Tây Sơn, phía Tây Đà Nẵng với thế núi hiểm trở lại án ngữ biển, nối đường thượng đạo với duyên hải là vị trí chiến lược quan trọng. Tháng 3/1965, Mỹ đổ quân bãi biển Nam Ô. Red Beach Two theo cách gọi của lính Mỹ, Bãi biển Đỏ số Hai, nay là Xuân Thiều, chỉ cách quê nhà ông chừng dăm cây số đường chim bay. Trước đó, những năm 50 của thế kỷ trước, chú nhóc nghịch phá quê An Ngãi, ” thiên đường của những giáo sĩ ” được gửi vào Chủng viện Làng Sông (Quy Nhơn), Bình Linh (Huế), Đại Học Thụ Nhân Đà Lạt và Giáo Hoàng Học Viện Pio X. Trong quảng đời hơn 42 năm linh mục mà ông ví von : ” còn dài hơn cả cuộc đời vua Khải Định “, ông kinh qua các giáo xứ Trà Kiệu, Chính Tòa Đà Nẵng, Thanh Bình, Hội An, chưa kể 3 năm sang Paris học Giáo Sử. Là Homo Dei (Người của Chúa), ông còn là người ham xê dịch, mê sử sách, thích sưu tầm, khảo chứng, viết lách.

Trà Kiệu, kinh đô Simhapura của Vương quốc Chăm thế kỷ thứ X, XI là giáo xứ đầu tiên mà ông đảm nhiệm. Trong những năm tháng khó khăn sau 1975, ông khuyến khích giáo dân trong khi canh tác, đào bới, nếu tìm được những hiện vật của văn hóa Chăm : một bức tượng bằng đất nung hay sa thạch, một bình gốm, một viên ngói, một khuyên tai hai đầu thú… thay vì đập bỏ hoặc phân kim, nhượng lại cho cha với giá rất thỏa đáng. Nhờ đó, biết bao cổ vật trên vùng đất linh thiêng Chăm-Việt được lưu giữ và bảo tồn. Về Thanh Bình, Đà Nẵng, ông lại đa mang với đá. Những viên đá như những ” vết lăn trầm ” đánh dấu một chuyến đi hay ông muốn tìm hình tượng Chúa qua sỏi đá ? Đến xứ đạo phố cổ Hội An, ông đánh xe lên Thanh Chiêm, Điện Bàn, ghi chép, đo đạc, tìm về ngọn nguồn vùng đất Dinh Trấn, nơi từ đó các chúa Nguyễn tiến về phương nam.

Dặm đường lữ thứ cuối cùng rồi cũng đưa ông trở lại quê hương, bản quán. Nhìn An Ngãi, tuy bây giờ gần Đà Nẵng hơn nhờ mấy con đường vi vu nhưng rách bươm như ” miếng da lừa “. An Ngãi đang bất an khi đất đai được… thành kính phân lô, lòng nhân ái bé hơn bìa sổ đỏ. Từ An Ngãi đến Cồn Dầu, trong tình cảnh nhiễu nhương rồi nhiễu sự, từ quá trình ” đô thị hóa “, với tất cả tâm huyết, ông viết bài ” Cồn Dầu không muốn Giầu “. Cuối cùng, vẫn ” chỉ là tiếng kêu trong hoang mạc “. Tháng 6 năm nay, miền Trung trời đổ lửa. Trước hiểm họa Trung Quốc, ông lo sợ… vẩn vơ : ” Nếu chẳng may đất nước can qua, thành phố Đà Nẵng hơn 1.000.000 dân, nằm giáp núi và biển, sẽ đi về đâu, lấy gì mà ăn ? ” Nỗi băn khoăn đó quá tầm đối với một bệnh nhân đã trải qua chín đợt hóa trị, ” thành viên ” Lymphoma Hodgkin ” BVUTĐN. Bệnh thì hiểm nghèo mà đọc lên sao nghe âm vang như tên… dàn đồng ca nhà thờ.

Khi cánh cửa thang máy khép lại, vẫy tay chào ông, hình ảnh bệnh nhân tầng 10 sôi nổi, nhiệt huyết, yêu Chúa, yêu người, yêu quê hương, yêu cả cuộc đời nầy làm tôi nhớ đến một câu nói của Oscar Wilde. Tạm dịch : ” Tất cả chúng ta đều ở cõi tạm, vậy mà có người nhìn lên những vì sao “.

.

Tống văn Thụy
DNG 2014 .

Tống văn Thụy và linh mục An Tôn Nguyễn Trường Thăng

.

Catégories
Prose

Carnet de voyage : Japon, Taiwan, Corée du Sud

Nghiêm Quang Thái (JJR65)

.

Le Japon, du jour au lendemain, s’est fait connaître du grand public occidental stupéfait par sa victoire en 1905 sur la flotte russe dans le détroit de Tsushima qui le sépare de la Corée, moins de quarante ans après sa décision d’entrer dans le monde moderne en 1868.

Mais plus admirable encore, le Japon est le seul pays d’Asie qui a su se développer en maîtrisant les sciences et techniques de l’Occident en un temps record, tout en préservant ses traditions millénaires, sans passer par des révolutions qui ruinent le pays et divisent profondément le peuple.

Une visite au Japon me paraît donc incontournable et le jour venu, c’est avec enthousiasme que je m’envole vers les trois pays appelés les dragons de l’Asie : le Japon, Taiwan et la Corée du Sud.

Nous sommes des voyageurs vietnamiens venant de France, mais la grande majorité d’entre nous vient des Etats-Unis.

Je connaissais déjà un peu le Japon à travers les films de samouraïs, les arts martiaux, les appareils de photos, les voitures hybrides, les sushi et les sashimi, les yakitori et le wasabi, les livres comme La Pierre et Le Sabre, La Parfaite Lumière de YOSHIKAWA Eiji, Shogun de James Clavell, The Sea of Fertility , une célèbre tétralogie de MISHIMA Yukio, prix Nobel de littérature, .. mais ce sont surtout mes amis japonais qui me font aimer le Japon avant de le visiter.

J’explique ci-après pourquoi des caractères chinois seront à dessein associés aux mots japonais, même si leur prononciation en japonais est très différente de celle des Hán.

Le Japonais utilise 4 types de graphies :

Le kanji (漢字 = Hán từ = caractère chinois) est l’ensemble des caractères empruntés au chinois. Il est l’un des trois ensembles de l’écriture japonaise avec le hiragana (平仮名 = kana lisse) et le katakana (片仮名 = kana fragmentaire)qui sont du kana (仮名), c.à.d. un ensemble de caractères qui notent chacun un son élémentaire appelé more.

L’explication linguistique de la more (à ne pas confondre avec la syllabe) japonaise dépasse le cadre de ce modeste compte-rendu.

Le kanji facilite grandement une interprétation spontanée et fidèle d’un mot japonais pour qui connaît le chinois, aussi lui sera-t-il fréquemment associé, mais parfois sans sa traduction en viêtnamien, ni en français.

Ex. : Nippon = 日本 = Nhật Bản = Japon, Tokyo = 東京 = Đông Kinh = Capitale de l’Est, Bushi = 武士 = Võ Sĩ = Celui qui possède l’art du combat, Shogun = 将軍 = Tướng Quân = Généralissime …

Le hira gana et le katakana s’utilisent comme compléments au kanji.

Pour simplifier, le hiragana sert à transcrire des mots japonais ne pouvant s’écrire avec un caractère kanji (comme le mot « Trời » (le Ciel) de la langue viêtnamienne ne peut s’écrire avec un caractère chinois classique) et le katakana sert à transcrire des termes étrangers.

Ils permettent de noter phonétiquement la langue, ce qui n’est pas possible avec le kanji.

A ces trois ensembles, on doit rajouter le romaji qui est le système d’écriture en alphabet latin utilisé dans le cadre de l’écriture japonaise.

Il est à noter que notre quốc ngữ introduit par Alexandre de Rhodes au XVIIè siècle a su résoudre élégamment tous les problèmes liés aux mots viêtnamiens, qu’ils soient d’origine chinoise ou non, mais c’est surtout l’alphabétisation des mots (et la phonétisation qui en découle) qui constitue un progrès décisif en les rendant analytiques, faciles à lire, à écrire et à mémoriser.

Ainsi on n’a aucune difficulté à écrire le mot Thiên (天), d’origine chinoise ou le mot Trời, d’origine viêtnamienne, l’alphabet romanisé facilitant grandement l’écriture d’un mot tel qu’on le prononce, sans avoir à connaître sa véritable signification, ni son origine. On l‘écrit si naturellement qu’on ne peut imaginer les difficultés de nos anciens à utiliser les caractères « Nôm » dérivés des caractères chinois pour écrire un texte qui contient indifféremment des mots d’origine chinoise et vietnamienne, sans compter ceux ayant d’autres origines ou à les retenir.

Chou En Lai, premier ministre de Mao Zedong, reconnaît lui-même que les Viêtnamiens ont de la chance d’avoir leur système d’écriture actuel.
.

27/03/2014 Tokyo Quartier de Daiba (台場).

Après un vol de 11H00 sans histoire à bord d’un Airbus A380 d’Air France en partance de Paris, les voyageurs « français » débarquent à Narita 成田, l’aéroport international de Tokyo.

Tokyo (東京=Đông Kinh =Capitale de l’Est) anciennement Edo (江戸 = Giang Hộ = Porte de la Rivière) est la capitale administrative du Japon depuis l’ère Meiji (明治 = Minh Trị) en 1868.

Deuxième capitale financière après New York, Tokyo qui compte de nombreux gratte-ciel, mais aussi d’innombrables temples shintoïstes et bouddhistes, est une ville où cohabitent harmonieusement tradition et modernité.

L’agglomération de Tokyo ou le Grand Tokyo, est la plus peuplée au monde avec une population de près de 40 millions d’habitants.

Au cours du siècle dernier, Tokyo a subi deux grandes catastrophes : détruite en 1923 par des tremblements de terre (143 000 morts) et durant la seconde guerre mondiale par les bombardements alliés (plus de 100 000 morts), la ville a été reconstruite selon une architecture des plus modernes destinée à résister aux secousses sismiques les plus violentes.

Les « Français » seront bientôt rejoints par les « Américains » venant de Los Angeles.

Sans perdre une seconde, car il faut respecter un programme prévu très dense, le groupe s’installe à bord d’un car qui emmène ses passagers visiter un temple bouddhiste dans la région d’Ushiku (牛久), à 50 kms au Nord-Est de Tokyo.

Là se trouve la statue en bronze du bouddha Amida (Phật A Di Đà en vietnamien) en position debout.

La statue mesure 120 m de haut et est considérée comme la plus grande statue de bouddha au monde.

Le bouddha Amida règne sur un monde merveilleux, sans mal et sans souffrances, appelé « Terre pure occidentale de la Béatitude » qui est l’équivalent du Nirvana selon certaines croyances.

Tous les autres bouddhas en parlent.

Le bouddha Amida est encore appelé le bouddha des bouddhas.

Le soir nous dînons au quartier Daiba de Tokyo où l’on nous sert des crevettes frites et des poissons accompagnés de légumes divers.

DaiBa (台場 = Đài Trường = Forteresse) est une grande île artificielle située dans la baie de Tokyo.

Son nom signifie « forteresse » car à l’origine des canons y étaient positionnés pour défendre Tokyo contre d’éventuelles attaques maritimes.

Notre dîner me rappelle plus la cuisine chinoise que la cuisine japonaise mais j’étais si fatigué que la question que je me posais ne me semblait pas très pertinente.

Aussitôt après nous nous dirigeons vers notre hôtel le « Tokyo Dome Hotel » pour préparer notre excursion du lendemain.
.

28/03/2014 Tokyo Skytree, Sanctuaire Meiji, jardin japonais et quartier Ginza

Le rituel des jours d’excursion est immuable ou presque :

Lever à 6H00 du matin, petit-déjeuner à 7H00, check-out à 7H45, départ vers 8H00, déjeuner vers 12H00, dîner vers 19H00, transfert vers 20H00-21H00 vers un hôtel (presque jamais celui qu’on vient de quitter le matin), check-in vers 22h00, préparatifs pour l’excursion du lendemain, un rythme soutenu auquel beaucoup d’entre nous ne sont plus habitués depuis longtemps.

Le matin nous nous rendons à la tour Skytree de Tokyo (東京スカイツリー) qui, avec ses 634 m, est l’une des plus hautes au monde.

Un ascenseur ultra-rapide (60m/sec) nous amène en un rien de temps à un étage situé à 450 m du sol où en dehors de l’éternel shopping nous pouvons nous distraire en admirant Tokyo et le fleuve Sumida 隅田 qui le traverse ou en marchant sur un plancher de verre à travers lequel nous voyons les immeubles situés en bas qui nous apparaissent tout minuscules. Impressionnant et … vertigineux.

L’après-midi est consacrée à la visite du sanctuaire shintoïste dédié aux mânes divins de l’empereur Meiji mort en 1912 et à ceux de sa femme, l’impératrice Shoken morte en 1914.

Le shintoïsme ((神道= thần đạo = voie du divin) est la religion officielle au Japon avec plus de 100 millions d’adeptes. Il est assez difficile à comprendre pour un non-Japonais.

C’est une religion polythéiste et animiste qui voit dans tout être vivant, tout objet et même tout concept abstrait un esprit (kami=神=thần=divinité) qui l’habite et qu’il faut respecter.

D’où peut-être l’extrême courtoisie des Japonais et le soin méticuleux qu’ils mettent à faire toute chose. Ce qui, ailleurs, serait de la superstition devient ici au Japon un art exquis de vivre.

Au Japon, l’empereur est le chef de l’Etat.

Selon la constitution actuelle il n’a plus qu’un rôle symbolique.

Jusqu’en 1947, il est appelé Tenno = 天皇 = Thiên Hoàng = Empereur Céleste.

A titre de comparaison l’Empereur de Chine ne s’appelle que Huáng Dì= 皇帝 = Hoàng Đế = Empereur.

A partir de 1947, après la défaite, sous la pression des Alliés, il a renoncé à sa nature de « divinité incarnée » mais reste toujours de descendance divine, d’une lignée d’empereurs qui remonte à 660 ans avant JC, avec le premier empereur nommé Jinmu ((Jinmu Tennō = 神武天皇 = Thần Võ Thiên Hoàng) descendant de la déesse du Soleil Amaterasu (天照 = Thiên Chiếu = Qui éclaire le Ciel).

La particularité des empereurs japonais est qu’ils descendent tous de la même dynastie qui règne sur le Japon depuis sa création en 660 avant JC.

Sa longévité en fait la dynastie la plus ancienne au monde.

En 1945, après la victoire, les Américains n’ont pas touché à l’institution impériale estimant qu’elle est le garant de la stabilité du pays.

On a beaucoup parlé de la sagesse américaine qui a su ménager l’avenir des relations entre les deux pays, en pensant à la situation de l’Allemagne après la 1ère guerre mondiale qui a vu l’arrivée des nazis au pouvoir à la suite de l’abdication de l’empereur Guillaume II.

Mais il ne faut pas oublier que l’abdication de l’Empereur du Japon n’était pas exigée par l’accord de Postdam signé en Juillet 1945 entre les Etats-Unis, l’URRS et le Royaume-Uni, pour mettre fin à la guerre contre le Japon et que la reddition japonaise fut reçue avec soulagement par le président Truman qui craignait une médiation trop empressée des Russes.

Le mérite revient in fine aux Américains et aux Japonais d’avoir réussi à effacer la haine entre leurs deux peuples et à faire du Japon un grand pays allié et ami des Etats-Unis.

Nous continuons l’après-midi par la visite d’un jardin traditionnel japonais dans le quartier Shinjuku 新宿de Tokyo.

On peut y admirer des cerisiers en fleurs, des pins parasols et des fleurs dont je ne saurais donner tous les noms.

La fleur de cerisier (sakura 桜 / 櫻, qui désigne en japonais aussi bien la fleur que l’arbre) est l’emblème des samouraïs qui constituent une classe guerrière de 1185 (période Kamakura 鎌倉時代) à 1868 (ère Meiji 明治時代).

Le samouraï ou bushi (武士 = Võ Sĩ) possède une éthique très stricte qui le fait mépriser la souffrance physique et la mort.

Il se suicide par seppuku (切腹 = suicide rituel par éventration), plus connu sous le nom de hara-kiri en Occident, s’il ne peut obéir à un ordre de son chef qu’il considère comme immoral ou s’il a lui-même commis un acte qu’il juge déshonorant.

Pour lui la vie est aussi légère que la fleur de cerisier, belle et éphémère.

Sa chute est comparée à la fin de la vie d’un homme, une fin qu’il affronte avec sérénité et courage, comme inscrite dans le cours inéluctable des choses.

Dans le film « Le Dernier Samouraï » avec Tom Cruise et Ken WATANABE, on peut voir le dernier samouraï se donner la mort par seppuku au moment où il comprend que la bataille est perdue, avec en arrière-plan une fleur de cerisier qui se détache de sa branche et s’envole dans l’air calme et limpide du jour.

Symbole fort pour qui connaît l’esprit du samouraï dont le savoir-mourir fait partie du savoir-vivre.

Le film « Le Dernier Samouraï » est inspiré d’un fait historique réel : la rébellion menée par TAKAMORI Saigo (隆盛西郷, 1827-1877) contre les forces impériales pour défendre la caste des samouraïs dont les privilèges étaient menacés par les réformes de l’empereur Meiji.

Elle s’est terminée le 24 Septembre 1877 par la bataille de Shiroyama (城山の戦, Shiroyama no tatakai) où 500 samouraïs survivants de TAKAMORI Saigo se lancèrent dans une charge à cheval à l’assaut des 30 000 soldats impériaux, armés de fusils et de mitrailleuses, qui les encerclaient et furent tués jusqu’aux derniers.

TAKAMORI Saigo lui-même grièvement blessé s’est fait seppuku selon la tradition des samouraïs.

Si aujourd’hui, les samouraïs n’existent plus au Japon en tant que classe guerrière, beaucoup de Japonais continuent de s’en inspirer dans leur façon de vivre en respectant les codes du Bushido (la Voie du Samouraï) qui exigent du pratiquant courage et fidélité sans faille à son idéal jusqu’à la mort.

Le soir nous nous promenons dans le quartier chic de Tokyo : Ginza (銀座 = ngân tọa = siège blanc ou en argent).

A Ginza, on trouve des magasins de luxe (Louis Vuitton, Prada, Shiseido, Dior, Cartier, ….) qui pratiquent des prix exorbitants, mais cela ne refroidit pas pour autant l’ardeur de la gent féminine qui nous accompagne, bien au contraire.
.

29/03/2014 Tokyo – Yokohama – Kamakura – Mont Fuji – Onsen…

Vers 9H00, nous visitons le Senso-ji (浅草寺), dans le quartier d’Asakusa de Tokyo, dédié au bouddha Kannon = 觀音 = Quan Âm encore appelé 觀世音 Quán Thế Âm (qui entend toutes les voix du monde), qui est le bouddha de la compassion et de la sagesse qu’invoquent les malheureux en détresse. Le Senso-ji, terminé en 645, est le plus vieux temple de Tokyo.

A midi, nous débarquons dans le quartier chinois de Yokohama (横浜), deuxième ville du Japon , située dans la baie de Tokyo, au sud de Tokyo, l’un des grands ports du pays avec Kobe, Osaka, Nagoya … où nous profitons du temps libre pour nous restaurer et faire un peu de shopping.

L’après-midi nous partons visiter la statue dédiée au bouddha Amida (Phật A Di Đà) assis, construite en 1252 sous le shogunat de Kamakura 鎌倉 (1185-1333).

.

Shogun (将軍= Tướng Quân) signifie généralissime.

Le shogun devient définitivement un titre héréditaire à partir de la période Tokugawa (1603-1867).

Il est le dirigeant de facto du pays (dictateur militaire) alors que l’empereur en est le dirigeant de jure (gardien des traditions) inamovible depuis près de 2700 ans.

Cependant, quand une crise devient insoluble, le shogun peut volontairement s’effacer pour redonner le pouvoir réel à l’empereur (seul cas officiel : Meiji en 1868 avec l’ouverture forcée du pays aux étrangers).

En 1498, un raz-de-marée balaya le grand temple du bouddha Amida jusqu’aux pièces de sa fondation mais laissa intact son corps.

En septembre 1923, un grand tremblement de terre détruisit sa base mais ne causa aucun dégât au corps du bouddha.

Ces deux événements font penser aux pouvoirs surnaturels de la statue.

C’est pendant la période Kamakura qu’on voit émerger la classe guerrière des samouraïs ainsi que le système féodal qui subsistera jusqu’en 1868.

C’est aussi pendant cette période que deux tentatives d’invasions mongoles ont échoué grâce au kamikaze, 神風 = thần phong = vent divin, qui coula les flottes mongoles parties de Corée.

La nuit venue, nous revenons à l’hôtel situé en face du mont Fuji (Fuji = 富士 = Phú Sĩ) avec ses 3776 m d’altitude, en espérant pouvoir l’admirer au lever du soleil vers 5H00 du matin.

On nous fournit un yukata (浴衣 = dục y = vêtement de bain), kimono d’été léger et des pantoufles confortables pour nous détendre.

En attendant le lever du soleil, nous profitons des onsen (温泉 = ôn tuyền), sources d’eaux chaudes de l’hôtel, en tenue d’Adam pour les hommes et d’Eve pour les femmes, comme c’est la coutume ici au Japon, à Taiwan et en Corée.

Mais contrairement aux camps de nudistes en France, hommes et femmes se baignent séparément.

L’expérience est si agréable que le lendemain, certains d’entre nous décident de la renouveler.

Quant au capricieux Fujiyama, grande déception, car à notre lever à 5h00 du matin, le ciel ne s’éclaircit pas et seul le brouillard est au rendez-vous.

On se dit tristement que ce sera pour la prochaine fois.
.

30/03/2014 Mont Fuji – Nagoya

La contemplation du Mont Fuji étant compromise par le mauvais temps qui y règne, notre car fonce vers Nagoya (名古屋), la troisième ville du Japon en superficie et la quatrième en population, derrière Tokyo, Yokohama et Osaka. Après la visite du parc Heiwa-Koen dédié à la Paix, à l’est de Nagoya, nous visitons le temple shintoïste de Linga Tagada à Komaki qui vénère le sexe masculin.

4 photos

Chaque année, une fête appelée Honen Matsuri est organisée le 15 mars à Komaki à 45 minutes de Nagoya en voiture. (Honen=abondance , Matsuri=fête). On y vient pour demander à l’esprit du sexe de donner la fertilité aux femmes ou des récoltes abondantes aux paysans. L’après-midi, nous sommes allés au musée de l’automobile Toyota où sont exposés des modèles de la marque mais aussi des voitures européennes et américaines depuis 1880 à nos jours.

On y voit des Rolls-Royce, des Packard, des Ford, … et bien sûr des Toyota.

Une collection de voitures de rêve pour millionnaires.
.

31/03/2014 Nagoya – Nara – Kyoto

Une agréable surprise nous attend avec la présentation par notre guide d’une jeune (et jolie) Japonaise qui va nous accompagner jusqu’à Kyoto où habite sa grand-mère.

C’est une étudiante qui fait à Hà Nội une thèse sur Khái Hưng, l’un des principaux rédacteurs du Tự Lực Văn Đoàn (littéralement : groupe littéraire pour l’auto-renforcement) créé par Nhất Linh.

Khái Hưng, est l’anagramme de Khánh Giư, de son vrai nom Trần Khánh Giư, né en 1896 dans le village de Cổ Am, district de Vĩnh Bảo, province de Hải Dương, près de Hà Nội.

Il est un romancier de talent, un chantre de la modernité et de la liberté individuelle, un fervent défenseur de l’indépendance nationale, que les communistes ont exécuté le 17 Novembre 1947.

Il est aussi connu pour avoir traduit le sonnet de Félix Arvers dont le premier quatrain était très en vogue chez les JJR dans les années 60 :

Mon âme a son secret, ma vie a son mystère
Un amour éternel en un moment conçu :
Le mal est sans espoir, aussi j’ai dû le taire,
Et celle qui l’a fait n’en a jamais rien su.

Lòng ta chôn một khối tình
Tình trong giây phút mà thành thiên thu
Tình tuyệt vọng, nỗi thảm sầu
Mà người gieo thảm như hầu không hay.

A mon avis, cette traduction sublime en thơ lục bát (poèmes alternativement en vers de six et huit pieds, selon la métrique viêtnamienne classique) transcende la version originale en vers alexandrins.

C’est avec une vive émotion que je redécouvre Khái Hưng, grâce à … une Japonaise.

A Nara (奈良) qui est la première capitale du Japon (710 – 784) dont les monuments historiques ont été inscrits au patrimoine mondial de l’humanité en 1998, nous avons visité, entre autres, le Tōdai-ji (東大寺 = Đông đại tự = Grand temple de l’Est), le temple en bois le plus grand au monde.
.

01/04/2014 Kyoto

Kyoto (京都 = Kinh đô = capitale) est de 794 à 1868 la Capitale impériale du Japon sous le nom de Heian-kyō (平安京 = Bình an Kinh = Capitale tranquille et paisible) .

Avec ses 2000 temples, ses palais, ses jardins, son architecture, Kyoto est considéré comme le centre culturel du Japon. Ses monuments historiques ont été inscrits au patrimoine de l’Unesco en 1998.

En 1945, la ville a été retenue comme cible d’un bombardement atomique puis écartée in extremis.

A Kyoto nous avons visité le temple bouddhiste Kinkaku-ji (金閣寺 = Kim các tự = temple du pavillon d’or) qui est le temple impérial situé dans le jardin des cerfs.

A l’origine il a été construit par le Shogun Ashikaga足利, qui y habite après avoir rendu son titre de Shogun, vers la fin du XIVème siècle, et le lieu fut transformé en temple.

Il doit son nom à ses deux étages recouverts d’or et est célèbre dans le monde entier.
.

02/04/2014 Kyoto – Kobe

Kobe (神戸 = thần hộ = porte des esprits )

Kobe possède l’un des plus grands ports du Japon. En 1995 un séisme de grande magnitude a détruit une grande partie de la ville et fait plus de 6000 morts.

Kobe est connu pour sa viande de bœuf (voir photo ci-dessus) et pour son quartier occidental.
.

03/04/2014 Himeji
.

Le château d’Himeji (姫路) est le plus visité au Japon et le mieux préservé.

Il a été construit au XIVème siècle.

Malheureusement, nous n’avons pas pu visiter l’intérieur du château d’Himeji qui est en cours de rénovation, mais seulement les jardins alentour.
.

03/04/2014 Osaka – Kansai

La fin de notre visite au Japon se termine à Osaka (大阪) qui est la 3ème ville du Japon.

Pour notre dernière étape au Japon, nous avons décidé de nous rendre au château d’Osaka construit au XVIème siècle par le shogun TOYOTOMI Hideyoshi (豊臣秀吉), qui est considéré comme le deuxième unificateur du Japon.

A sa mort en 1598, le château d’Osaka passe à son fils TOYOTOMI Hideyori (豊臣 秀頼) âgé de 5 ans.

TOKUGAWA Ieyasu (徳川家康), qui était l’allié de TOYOTOMI Hideyoshi de son vivant et désigné par lui comme l’un des cinq régents pour gouverner le pays et protéger son fils pendant sa jeunesse, défait les troupes loyales à celui-ci à la fameuse bataille de Sekigahara en 1600, devient Shogun en 1603 et s’établit à Edo (qui deviendra Tokyo en 1868).

En 1615, il attaque TOYOTOMI Hideyori dans le château d’Osaka pour la deuxième fois, qu’il prendra rapidement.

C’est la fin du clan TOYOTOMI avec le suicide par seppuku de Hideyori à l’âge de 22 ans, le suicide par jigai (自害 ou suicide réservé aux femmes) de sa mère, et la mise à mort de son fils de 8 ans.

TOKUGAWA Ieyasu est considéré comme le troisième et dernier unificateur du Japon.

Le château d’Osaka est un ouvrage imposant avec 5 étages à l’extérieur et 8 à l’intérieur.

Il possède un parc magnifique avec des cerisiers en fleurs, les plus beaux que nous ayons vus depuis le début de notre voyage au Japon.
.

04/04/2014 Osaka – Taiwan (台灣) – Séoul (서울) – Paris (巴黎)

Après le Japon, nous partons pour Taiwan où une nouvelle aventure nous attend, puis nous nous rendons en Corée du Sud avant de retrouver, pour ceux et celles d’entre nous qui l’avons un moment quittée, notre belle et douce France.

Taiwan est une ile de 36 000 km2 avec 23 millions d’habitants, connue en français sous le nom de Formose, du portugais Formosa (belle île).

Elle est depuis 1949 administrée par la République de Chine qui occupe le siège de la Chine à l’ONU jusqu’en 1971, date à laquelle elle est remplacée par la République Populaire de Chine.

Après quelques décennies de régime autoritaire, Taiwan est devenue un pays démocratique et connaît un essor économique qui la place au rang des pays industriels développés avec un niveau de vie équivalent à celui de l’Union Européenne.

Taiwan est connue pour ses produits électroniques (ACER, ASUS, HTC, TSMC …) , dont seulement une petite partie est fabriquée sur place, pendant que le reste de la fabrication est délocalisé en Chine et dans les pays de l’Asie du Sud-Est où la main d’œuvre est meilleur marché.

La Corée du Sud (대한민국 = 大韓民國 = République de Corée) qui compte 49 millions d’habitants est la douzième puissance économique mondiale.

La Corée possède un alphabet officiel appelé hangeul 한글 = 諺文 = ngạn văn = langue des proverbes (글 = geul = langue, 한 = han = proverbe) inventé par le roi et savant Sejong le Grand (세종대왕) pour remplacer les caractères chinois (hanja) jugés trop complexes, dès le milieu du XVème siècle.

Le hangeul est considéré comme l’un des systèmes d’écriture les plus scientifiques au monde.

Les industries coréennes se placent aux premiers rangs mondiaux pour l’électronique grand public, la construction navale, la construction automobile et la sidérurgie.

Le point le plus spectaculaire de notre visite en Corée du Sud est la DMZ (zone démilitarisée) servant de démarcation entre les deux frères ennemis que tout sépare, la Corée du Nord, communiste, pauvre et totalitaire et la Corée du Sud, moderne, riche et démocratique.

Nous avons visité en guise d’attraction touristique l’un des quatre tunnels creusés par les Nord-Coréens depuis la DMZ pour attaquer la Corée du Sud par surprise, mais toutes ces folles tentatives belliqueuses de la Corée du Nord de 1975 à 1990 se sont soldées par des échecs grâce à la vigilance des Sud-Coréens surentraînés et équipés de matériels les plus modernes. Au moins l’une d’entre elles a échoué à la suite de la désertion de l’architecte en chef du tunnel qui a révélé tout le plan d’invasion aux Sud-Coréens.

L’impression générale que je retire de ce périple à travers les trois pays de l’Asie, Japon, Taiwan et Corée du Sud, est un sentiment de grande sécurité partout où je vais, que je me promène dans la rue ou que je loge à l’hôtel, dû non pas à une présence policière quasi-inexistante, mais au sens civique élevé de leurs habitants.

Une anecdote personnelle vient renforcer ce sentiment de confiance : j’ai oublié mon appareil de photos dernier cri à l’hôtel et on me l’a fait suivre à l’étape d’après, soigneusement emballé pour éviter tout choc éventuel au cours du transport.

En conclusion, le Japon, Taiwan et la Corée du Sud méritent à juste titre leur surnom de dragons de l’Asie.

.

Catégories
Prose

Năm Ngọ nói chuyện Ngựa

Dang Tien (BP60)

.

Horse in a landscape – Franz Marc

Năm Ngọ nói chuyện Ngựa, câu hỏi đầu tiên là : chữ Ngọ tên một trong mười hai địa chi của âm lịch, có nguồn gốc từ lâu đời tại Trung Quốc, mang âm vang hao hao với chữ Ngựa, tên của động vật tượng trưng cho địa chi ấy. Vậy Ngọ, chữ Hán, và Ngựa, tiếng thuần Việt có họ hàng gì với nhau không ?

I. Ngọ và Ngựa

Hai danh từ cận âm cận nghĩa, từ lâu ta vẫn cho là tình cờ. Như tên người phát thơ và chữ facteur, tên món phở và chữ pot au feu trong tiếng Pháp, cải bắpcabbage trong tiếng Anh.

Nhưng sao nhiều trùng hợp quá : năm Mão, hay Mẹo gần với chữ Mèo, trong khi người Tàu gọi là năm Thỏ ?

Trước đây, nhân một bài viết về Năm Thìn và con Rồng, giáo sư ngữ học Nguyễn Tài Cẩn có đề xuất : chữ Thìn có thể là tên gọi một loài rồng rắn trong ngôn ngữ Proto Việt Chứt, mà tiếng Việt Mường là một tiểu chi. “Giới ngữ học quốc tế đang cố gắng tìm nguồn gốc tên gọi 12 năm ở những ngữ hệ, Austro Thái, họ Nam Á … cố gắng tìm xem Hợi có gần với Cúi , Sửu có gần Trâu , Ngọ có gần với Ngựa hay không” (1). Nên ghi nhận thêm : người ta nói : năm Ngựa, tuổi Ngựa, mà không nói “giờ Ngựa” thay cho giờ Ngọ. Chữ Ngọ Môn không ai dịch thành “Cửa Ngựa”. Vậy giữa Ngọ và Ngựa, tương quan không phải chỉ là ngữ âm.

Dù sao, trước mắt, chúng ta vẫn có viễn tượng giải quyết một vấn đề văn hoá mà chúng ta … không đặt ra.

II. Ngựa Hồ, gió bấc

Xưa nay, Việt Nam không có truyền thống sử dụng ngựa rộng rãi như Trung Quốc.
Ngay ở Trung Quốc thời xưa, cư dân lưu vực sông Hoàng Hà cũng không có ngựa hay, như các sắc tộc phía Tây hay phía Bắc, mà họ gọi là rợ Nhung, rợ Hồ.

Thời nhà Thương, 2000 năm trước tây lịch, người Hoa (tạm gọi như thế) đã biết sử dụng chiến xa do ngựa kéo. Nhưng chưa có kỵ binh và dường như cũng chưa biết chăn nuôi ngựa nòi. Họ phải mua, hay cướp ngựa các dân tộc phía Tây Bắc. Đến đời Tần-Hán, họ đã dùng chiến mã thuần thục, nên mới có câu nói của Hán Cao Tổ “Ta ngồi trên lưng ngựa mà chiếm được thiên hạ, cần gì Thi Thư“, và Lục Giả đã trả lời : “ngồi trên lưng ngựa chiếm được thiên hạ, nhưng không trị được thiên hạ” và Hạng Võ, vào bước đường cùng ở bến Ô Giang mới làm thơ biệt Ngu Cơ “thời bất lợi hề, ngựa không đi“.

Nhưng theo sử sách, ngựa nhà Hán vẫn không hay bằng ngựa của người Nhung, người Địch. Do đó mới có chuyện vua Hung Nô tiến cống cho Hán Vũ Đế con Thiên lý Mã, rất được tôn quý và nuôi ở vườn Tượng Lâm. Nhưng đến mùa gió Bấc thì ngựa Hồ lại hý, như là nhớ quê phương Bắc, nhớ rầu rĩ đến chết. Và Mã Viện đã có câu da ngựa bọc thây để tỏ chí làm trai. Thời đó, nhà Hán cấm xuất khẩu đồ sắt và ngựa nòi sang phương Nam, hoặc chỉ xuất khẩu ngựa đực.

Trong di chỉ An Dương, mười thế kỷ trước Tây lịch, người ta đã thấy vết tích ngựa kéo xe. Trong phần mộ đời Tần, có nhiều tượng ngựa bằng đất nung và xương ngựa. Thời Đông Hán còn để lại những phù điêu tô màu, vẽ rõ nét cảnh đi săn, người cưỡi ngựa và đoàn xe ngựa kéo. Người Tàu ưa vẽ ngựa, càng ngày càng đẹp, như Hàn Cán đời Đường, tạo ra cả một trường phái qua bức tranh lụa Một Trăm con Ngựa (27 cm x 300 cm) mô tả mọi sinh hoạt : ngựa phi, ngựa đùa, ngựa tắm… Có khi họ diễn đạt tình cảnh, tâm trạng ngựa, như Con Ngựa bị cột của Hàn Cán (720-780) hay Người và Ngựa trong Cơn Bão của Triệu Mộng Phu (1254-1322). Gần đây Từ Bi Hồng (Xu Bei Hong) vẫn còn vẽ rất nhiều tư thế, tâm trạng Ngựa.

Horses – Xu Bei Hong

Tranh ngựa của Trung Quốc là cả một thế giới riêng, có quy luật, có giá trị mỹ thuật, tâm lý và nhân văn riêng. Còn con ngựa trong văn thơ của họ, là một đề tài vô cùng tận.

III. Ngựa Việt, Phương Nam

Người Việt đồng bằng ít dụng ngựa. Ngàn xưa đã vậy. Những khai quật các di chỉ Đông Sơn, cho thấy nhiều xương trâu, bò, heo, gà, mà không thấy xương ngựa. Chư vị sử gia đều nhất trí cho rằng thời Hùng Vương, tổ tiên ta chưa sử dụng ngựa.

Dù rằng truyền thuyết vẫn nhắc đến ngựa : Thánh Gióng cưỡi ngựa sắt đi đánh giặc, thần Tản Viên cưỡi ngựa bạch, đi trên mây, An Dương Vương đèo công chúa Mỵ Châu trên lưng ngựa … nhưng đây là chuyện truyền khẩu, không lấy gì làm bằng cớ, do đời sau ghi lại trong Lĩnh Nam Chích Quái.

Về sau, ngựa cũng không mấy khi được ghi công vào những cuộc chiến đấu của dân tộc như voi : Hưng Đạo Vương cưỡi voi qua sông Hoá, Bình Định Vương cưỡi voi đánh Đông Đô, Quang Trung cưỡi voi tấn công vào Hà Hồi. Ngựa có chiến tích là con NGỰA ĐÁ thời Trần, qua câu thơ Nhân Tông : “Xã tắc lưỡng hồi lao thạch mã” (xã tắc hai lần bon ngựa đá). Điều đó không có nghĩa là thời xưa, người Việt không biết đến ngựa. Đại Việt Sử Ký Toàn Thư kể lại rằng : Năm 1134, có người dâng lên vua Lý Thần Tông con ngựa màu hoa đào, đầu xanh, có sáu cựa, chân trước một, chân sau hai cựa.

Cheval en pierre – Bửu Chỉ

Văn học dân gian cũng ít có ngựa. Trong tục ngữ, thành ngữ, ngựa là một biểu tượng mâu thuẫn : một con ngựa đau, cả tàu không ăn cỏ, ngựa là hình ảnh đoàn kết, tương thân tương ái ; nhưng nó lại tượng trưng cho lòng tham không đáy ở câu cạn tàu ráo máng. Khi nói : lạc đường nắm đuôi chó, lạc ngõ nắm đuôi trâu là ca ngợi lòng trung thành của loài vật ; nhưng nói ngựa quen đường cũ là chê thói hư tật xấu. Thân trâu ngựa, trâu tìm trâu, ngựa tìm ngựa, ngựa non háu đá, là những ẩn dụ miệt thị.

Thậm chí, những tính từ ngựa, đĩ ngựa, thường chỉ áp đặt cho phụ nữ, chê bai lối sống tự do, phóng túng, là những từ kỳ thị nữ giới, bất công và lạc hậu. Người Huế khi nói “con ngựa Thượng Tứ” là phỉ báng nặng lời.

Trong ca dao, hình ảnh ngựa không nhiều và không rõ nét. Nguyễn văn Ngọc, trong Tục Ngữ Phong Dao (1928) có sưu tập :

Rập rềnh nước chảy qua đèo,
Bà già tấp tểnh mua heo cưới chồng

Ý muốn nói sự việc khó khăn, trái với tự nhiên. Trong bộ sưu tập ca dao của Nguyễn Xuân Kính (1995) có câu rập khuôn :

Rung rinh nước chảy qua đèo
Ngựa đua xuống biển, thuyền chèo lên non

Có người giải thích là phản ánh thuyết vô thường của nhà Phật.

Ngựa thường là biểu tượng cho quyền thế, giàu sang : Năm con ngựa bạch sang sông
Năm gian nhà ngói đèn trong đèn ngoài…
Đèn thương nhớ ai …

Hoặc là :

Ngựa ô yên khấu bằng vàng
Chân nạm bằng bạc
Ba vuông nhiễu thắm
Một bộ áo gấm
Thiếp sắm cho chàng
Kinh lại hồi kinh

Vợ chồng Mèo đi chợ – Văn Cao

Những hình ảnh đó đã đi vào dân ca, qua điệu Lý Ngựa Ô :

Ngựa Ô anh thắng kiệu vàng
Anh tra khớp bạc
Lục lạc đồng đen …

Văn học thành văn trước kia chịu ảnh hưởng hán học, sau này chịu ảnh hưởng phương Tây, cho nên đều có nhiều hình ảnh ngựa, hàm súc và thi vị. Nhưng đây là đề tài quá rộng, cần một bài viết khác.

Chúng tôi muốn dừng lại ở bóng dáng con ngựa trong câu ca dao Phú Yên, gọi là hò Phú Ơn. Có lần, khoảng 1955, Nguyễn Tuân tiễn bạn, một đêm mưa gió. Nửa khuya, quán nghèo. Nguyễn Tuân cầm ống thổi lửa, cảm khái gõ ngón tay đánh nhịp và hò :

Chiều chiều mượn ngựa ông Đô
Mượn kiệu chú lính đưa cô tôi về
Ngựa ô đi đến quán Lau
Ngựa hồng đủng đỉnh đi sau gò Điền

Chuyện do Tô Hoài kể, không phải trong Chiều Chiều , mà trong Cát Bụi Chân Ai…

Đặng Tiến
Tết Giáp Ngọ, 2014

.

(1). Nguyễn Tài Cẩn, Về tên con Rồng của Người Việt, báo Diễn Đàn, số 94, Paris. In lại trong Một số Chứng Tích về ngôn ngữ, văn tự và văn hoá, tr. 27-28, nxb Đại Học Quốc Gia, Hà Nội, 2001

.

Catégories
Prose

A Silhouette in The Fog (1)

by NHAT LINH (2)
Translated from the Vietnamese by TRUC HUY

Adapted from a friend’s account.

.

It was pitch-black outside. In the compartment of second class, I was alone face to face with Trach, an old friend, that a sheer chance had made me meet him in the same train. Ten years ago, he was still conducting the train and lived in a precarious financial situation like me. We were both amazed and happy to meet each other again in this coach.

While speaking to him, I noticed, lain by his side, a very beautiful box inlaid with mother-of-pearl. I took it up to admire it more closely, and I opened it fortuitously. My friend appeared to be dissatisfied but, out of consideration for me, he did not say anything. Then I found out something quite unusual : locked up well in the box was an enormous butterfly with its wings already damaged. I told him :

– Butterflies, like this one, are commonly seen in my region ; they aren’t of rare species. Why do you want to preserve it with so much care and affection ?

– It’s true. It is a very common butterfly. As a matter of fact, it’s just a bombyx, but for me…

The roar of the train passing on a metallic bridge interrupted his sentence. He listened attentively to that sound, and then declared :

– We are just crossing bridge N. G.. It’s precisely on this bridge, in its middle, that I caught this butterfly, ten years ago…

His face seemed to change expression. I presumed that there was something the matter with him, so I hastened to ask :

– This butterfly is undoubtedly related to some kind of story, isn’t it ?

– Yes, a sad story … It happened to me more than ten years ago, about the time when you made a move to Saigon ; and myself, I was still conducting a train and worked on this line. No need for me to tell you in what situation I was then ; you know that well.

– In the same situation as mine…

– However, I did not tell you one thing : by that time, I was just married, but I kept it secretly from my family, from everyone, from you. My wife and I, we lived in poverty, yet we were really very happy. My wife, however, was too fragile to support all these privations, and her health’s condition declined day after day. Then, with time, she became seriously sick. Unfortunately, I had to continue to go to work, although there was nobody to look after her at home.

One evening, my wife lost consciousness several times ; and that precise evening, my superior ordered me to lead the official convoy of the Governor General. It was a true chance for me, but I could not accept. I immediately went and saw my superior to explain to him that my wife was very sick. He flew into a white rage and shouted to me :

– I don’t want to know ! Either you will show up at the station at ten o’clock tonight, or you can quit your job right now and it’s not necessary for you to come back again. Get out of here now !

His words proved to be inflexible ; and me, I could not know which decision to take. However, when returning home and sitting beside my wife lying in bed, I realized, in seeing her, that I could not leave her alone at home like that, that I needed to remain by her bedside, whatever would happen, even should I lose my job.

My wife, seeing me so anxious, questioned me. I told her the whole story. After I finished my account, her face became very radiant, she said :

– You will go there ! There is nothing to worry about. I’m all right. Moreover, I feel myself much better now. When you return home tomorrow evening, don’t forget to bring me a small gift.

I saw her laughing and speaking merrily ; that reassured me. I got dressed and left for the station. When I arrived there, it was exactly ten o’clock. However, right after the departure of the train, I started to feel myself very anxious : I realized that I had behaved inconsiderately ! I got a very strange feeling, something like a presentiment : it seemed to me as though, when I left my wife alone at home like that, I was not going to see her again, alive, at my return.

I tried to concentrate myself in operating the machine, but that hardly lasted very long. Suddenly, the train seemed to oscillate and lean on one side, as if it were going to overturn. My heating aid released his shovel and grasped me :

– Hey ! What have you tonight ? This turning is dreadfully dangerous, and you did not slow down. Did you fall asleep ?

I did not fall asleep but if I was there well upright, my spirit, on the other hand, was somehow with my dying wife, at home, lonely in our small house. I had dazzles in my eyes and I was covered with sweat.

We entered a mountain ravine. It was a rough pass for the train, because of upward and downward slopes. I leaned my head outside through the door to look in front of me ; but that night, there was a thick fog. One could not distinguish anything except a white gleam formed in the beam of the two headlights.

Suddenly, I saw … very distinctly, I saw, in the fog, the silhouette of a woman wearing a very loose white dress, standing over there, at some distance ahead of the train, her arms fully stretched out. I rubbed my eyes, believing in a hallucination, but the silhouette was always there. I called my aid and sent him to look by the door, then asked him :

– Don’t you see something ?

Hardly had I finished these words that the silhouette disappeared. My aid leaned his head outward then replied :

– I only see the fog ! You must have a dream.

– No way, I saw very well a silhouette of a woman in the fog, but she has just disappeared.

My aid laughed, incredulous. He took his shovel and added coal into the boiler ; and me, on the other hand, I could not move from there, my eyes still looking the route in front of me. A few moments later, the woman’s silhouette reappeared again, this time much clearer, and stretched her arms wide open, as if she wanted to bar the train from moving on.

Again I called my aid, but this time he pretended not hearing me, feigning absorbed in throwing coal into the boiler. I knew that I did not dream, I knew that the silhouette was real, and that everyone would see it. I caught my aid’s hand, took him to the door and said with determination :

– Now, look again !

His mouth and eyes wide opened with great fear, he uttered :

– It’s very … very strange … It is a ghost !

As the train advanced, the woman’s silhouette moved back, floating between sky and ground, and being specified and growing blurred in turn. Then, the silhouette waved both arms in full gesture, as though she wanted to convey to us to stop, that there was imminent danger.

I said to my aid :

– I think it will occur something abnormal.

– Yes, the silhouette seems to gesture to us to stop.

The woman’s silhouette persisted in making great gestures of arms, which became increasingly faster and faster, as if she were desperate not to be able to make herself understood.

– I think we’d better stop the train and find out what it is. It’s certainly a ghost !

– You should not do that. There is no reason…

Then I heard a sort of buzzing and steady noise that continually amplified in my ears. I felt myself as if I were going to lose conscience at any moment : a voice reached me from very far, a woman’s voice that said to me :

– Stop ! Stop !

As I listened attentively to that voice, my hand held firmly the brake, ready to apply it, however not daring to do so. Again, I heard the woman’s voice, more distinct and more urging than ever :

– Slow down ! Apply the brake immediately !

Not realizing what I did, with my eyes shut, I jammed on the brakes brutally. The sudden movement shook all the coaches ; the iron wheels howled in the silence of the night. The train still ran a little distance more, then immobilized. As I hardly climbed down the steps, the train guard came running, holding a lantern in his hand, and asked :

– What happened ?

I was confused, not knowing what to answer. Who would believe me even though I would tell the truth ? I mumbled :

– There is something very strange. Let me go and find out with the lantern.

Coming to the news, the officers of the Governor’s delegation joined us and, before this unexpected event, accompanied us. At some distance from there, we heard the roar of a waterfall. By gathering my spirits, I realized that we were at bridge N. G..

On the previous days, it had been raining abundantly ; and it was probably the torrential flow that caused such a tremendous sound. Arrived at the edge of the river, what we saw with the gleam of the lantern struck us with stupor : the torrent had divided the bridge in two.

A little more, if I had not slowed down in time, the convoy transporting the Governor would have been precipitated in the ravine, and none of us would have survived. One could not imagine such a more appalling catastrophe, and it was I who had avoided it by a hairbreadth. I was standing there, stupefied, unable to understand what had happened.

The train guard, glowing with great relief, asked me :

– How did you know that it was necessary to slow down and apply the brake in time like that ?

– I really don’t know.

With joy painted on every face, the officials made circle around me, assailing me with questions to which I could not answer. Then they drew aside to give way to the Governor General himself. Although I was only a simple railway worker, the Governor did not hesitate, in his joy, to shake my hand soiled with coal and to express to me his congratulations.

It was undoubtedly that I was going to receive a deserving award or honor but, at that precise moment, it was to me of little significance, since I was totally absorbed in thinking to my wife, ill and lonely at home.

When I got back to the train, I suddenly caught sight of something stuck on one of the headlights. As I looked at it more closely, I saw that it was a very large butterfly, taken in the headlight and still being struggled to free itself from there. It was precisely the same butterfly you see here in this box.

I understood the whole thing immediately by looking at it. The truth was this : the woman’s silhouette of a few moments ago was in reality the shadow of that butterfly projected on the fog. The head of the animal was the head of the woman’s silhouette, and its beating wings her waving arms.

I caught the insect and was about to release it, but thinking that it had saved my life, I decided to keep it as a souvenir. At that very moment, the clock in the train indicated two o’clock in the morning…

The following day, as soon as I arrived at the steps of my house gate, a kid got out precipitately, announcing to me that my wife had died ; she died in the night, around one o’clock in the morning.

I’m not superstitious and want to convince myself that it was merely something fortuitous, that it was just a coincidence. However, I could not prevent myself from thinking that my wife’s soul had been reincarnated in this butterfly to preserve me from that accident, that night.

What is the meaning of my life now ? I have survived and have saved my body, but for what ? Wealth and glory are vain things for me now. I am now very much alike this butterfly, even though my body is here, but my heart is elsewhere…

When he finished his account, my friend closed the mother-of-pearl inlaid box and said absent-mindedly :

– Now, there is left here only the remains of that butterfly, without its soul !

.

(1) Translated from “Bóng Người Trên Sương Mù”, a story from the collection “Anh Phải Sống” (You must live) by Khái Hưng and Nhất Linh, published in 1937.
(2) Nhất Linh (real name : Nguyễn Tường Tam, 1905-1963), was the most important pre-war Vietnamese novelist. In 1931, he met Khái Hưng (real name : Trần Khánh Giư, 1896-1947), one of the most famous Vietnamese authors of the first half of the 20th century, and the two founded, in 1933, the “Tự Lực Văn Đoàn” (Self Strength Literary Group). He contributed largely to ensure the literary revival in Vietnam during the pre-war period. Nhất Linh’s main works are :
– “Nắng Thu” (Autumn’s sunlight) – 1934 (novel)
– “Đoạn Tuyệt” (Breaking the ties) – 1935 (novel)
– “Lạnh Lùng” (A lonely life) – 1936 (novel)
– “Anh Phải Sống” (You must live) – 1937 (short stories) (in collaboration with Khái Hưng)
– “Hai Buổi Chiều Vàng” (Two golden afternoons) – 1937 (novel)
– “Đôi Bạn” (Two friends) – 1938 (novel)
– “Bướm Trắng” (White butterfly) – 1939 (novel)
– “Xóm Cầu Mới” (Cau Moi hamlet) – 1958 (novel)
– “Dòng Sông Thanh Thuỷ” (Thanh Thuy river) – 1960-1961 (novel)

.

Catégories
Prose

Con Rắn trong huyền thoại và văn học

Đặng Tiến (BP60)

.

Về mặt biểu tượng, rắn là một hình ảnh phức tạp. Hiện nay, trong dân gian nhiều nước, rắn biểu trưng cho sự độc hại, gian hiểm. Tiếng Việt có những thành ngữ : nọc độc, khẩu phật tâm xà. Nhưng trước các hiệu thuốc tây, bảng hiệu y khoa, ta lại thấy hình ảnh con rắn quấn quanh cây gậy, nó có tác dụng cứu chữa bệnh tật, nhắc đến một câu đồng dao trong trò chơi dân gian Việt Nam : rồng rắn đi đâu / xin thuốc cho con …

Và một số tín ngưỡng, như Ấn độ giáo, ngày nay còn thờ rắn, thần linh Naga.

Serpent par Hokusai

Rắn không những là một biểu tượng phức tạp, mà còn tượng trưng cho các động lực tương phản : tử sinh, âm dương, thiện ác …

Chúng ta khó bề sưu khảo tường tận về biểu tượng rắn qua các nền văn minh khác nhau, chỉ lưu ý rằng đề tài không đơn giản.

*

Ca dao ta có câu :

Trứng rồng lại nở ra rồng Liu điu lại nở ra dòng liu điu

Đây là một câu ca dao lạc hậu, quy thân phận con người vào một định luật thiên nhiên ; kỳ thật, nó chỉ là một câu vớ vẩn, mang tính cách tự hào và miệt thị giai cấp mù quáng, có ý đối lập rồng, biểu tượng cao quý cho tầng lớp giàu sang, với liu điu là loài rắn tầm thường, những phận người nghèo khó, tối tăm. Thật ra rồng và rắn cùng một nguồn gốc, thậm chí rồng là hậu thân của rắn. Ngay trong Thánh kinh Ki tô giáo, con rắn hiện thân cho cám dỗ, tội lỗi cũng là hậu duệ của rồng bị Chúa Trời trừng phạt, phải lê tấm thân bò sát và xấu xí.

Trong công trình biên khảo kinh điển : Cội Rễ lịch sử của Truyện Truyền Kỳ, Vladimir Propp đã dành một chương dài cho vai trò Rồng. Dịch giả từ tiếng Nga sang tiếng Pháp ghi chú : ” Rồng (dragon) dịch từ chữ zmei là giống đực của từ zméia có nghĩa là Rắn (serpent). Từ giống đực chỉ dùng để cho nhân vật kỳ ảo trong cổ tích và huyền thoại. Có thể dịch từ này thành Rồng hay Rắn ” 1.

Trong tiếng Việt Nam, nhà ngữ học Nguyễn Tài Cẩn, trên mặt báo Diễn Đàn, tết Canh thìn 2000, đã có bài vô cùng uyên bác, chứng minh rằng thời tiền sử, từ Rồng và Rắn có thể có chung nguồn gốc là từ / mahing / ở vùng Thà Vựng ngày nay. Anh còn nhắc lại rằng : ” tác phẩm nghệ thuật ở các đền chùa Lý Trần lại cho phép nghĩ rằng ta cũng vốn có cả một tên gọi Rồng Rắn theo kiểu rồng / mahing / ở vùng Thà Vựng ” 2.

Điều này hoạ sĩ Nguyễn Đỗ Cung, chuyên gia về mỹ thuật, trong một tham luận năm 1970 đã nhắc lại : con Rồng thời Lý khác con Rồng Trung quốc, nó có hình dạng Rắn, ” có nhiều đường lượn. Hình loại rồng này phải có lịch sử của nó, có thể xuất hiện trước đời Lý nhiều… Nay ta gọi là Rồng, nhưng xưa chưa hẳn đã gọi là Rồng, mà có thể là một loại “ rồng rắn ”, trẻ con ta thường có trò chơi “ rồng rắn ” 3

Ngày nay, những khám phá về dân tộc học, huyền thoại học đã đẩy kiến thức và suy luận chúng ta đi xa hơn : hình ảnh Rồng Tiên là một sản phẩm văn học xuất hiện khá muộn màng trong tư duy dân tộc, ít nhiều do ảnh hưởng Trung Quốc và Đạo giáo. Ngay chữ ‘tiên’ cũng mới xuất hiện từ đời Hán, trước đó là những ‘chân nhân’. Vật tổ của các dân tộc Việt : Kinh hay Thượng, là Chim và Rắn. Hình tượng Chim thường gặp ở huyền thoại các dân tộc anh em miền núi, hình tượng Rắn thường gặp ở truyện cổ các vùng đồng bằng gần sông gần nước. Địa danh Ngã Ba Xà, hợp lưu giữa sông Cầu và sông Đuống, nhắc đến tín ngưỡng thờ Rắn (Xà), thờ Thánh Tam Giang là thần Rắn, có nơi được nhân cách hoá thành anh em Trương Hống, Trương Hát, cai quản khúc sông từ Ngã Ba Xà đến Ngã Ba Phượng Nhãn. Học giả Phan Ngọc viết rất rõ về vấn đề này và cho biết dọc sông Cầu có đến 300 xã thờ Thánh Tam Giang. 4

Các học giả Trần Từ (Từ Chi) và Bạch Đình cho biết thêm, trong truyện cổ Mường thường có nhân vật Khú ưa xuất hiện dưới dạng rắn nước, với đặc điểm : bao giờ cũng có mào đỏ trên đầu giống như gà trống. Điều này xác nhận một tư liệu của Lê văn Lan và Trần Minh Hiên trước đây :

” Trong ngôn ngữ và khái niệm người Khmu, có một con vật gọi là prư dồng. Đó là một con vật hình rắn, có mào như mào gà, có vảy và có chân. Trong ngôn ngữ và ý niệm Thái, “ prư dồng ” tương đương với “ tu luông ” là một con vật có vảy và có bờm như ngựa. Những con vật quái đản này không có quan hệ gì về dòng họ với những người đang sống, nhưng lại có vai trò như một thứ thần chịu trách nhiệm về nắng mưa như một thứ “ ma nước ” và những con vật quái đản này cũng thường được hiểu như khái niệm thuồng luồng của người Việt … Từ Quỳnh Nhai đến Mường la, trên sông Đà có khoảng 20 cái thác thì có 20 nơi thờ thuồng luồng như thế ; thường cúng bằng gà, lợn ” 5.

Thuồng luồng là rắn nước, sách Lĩnh Nam Chích Quái ghi là Giao Long, và kể rằng vua Hùng đã dạy dân chúng ” lấy mực xăm vào mình hình (Lạc) Long Quân, theo dạng thuỷ quái ” để tránh nạn thuồng luồng bách hại. Nhưng đây có thể là lối giải thích thực dụng của Nho giáo. Có thể người Văn Lang thời đó xăm mình theo dạng rắn vì là thuỷ tổ của mình. Dĩ nhiên là điều này không loại trừ điều kia.

*

Trong văn học, câu chuyện Giao Long kể trên có lẽ là xưa nhất, bên cạnh chuyện Lạc Long Quân diệt Ngư Xà. ” Ngư Xà dài hơn năm mươi trượng, chân nhiều như chân rết, biến hoá vạn trạng, linh dị khôn lường… (có khi) hoá thành gà trắng gáy trên đỉnh núi ” (Truyện Ngư Tinh). Ngư Xà ăn thịt người, gây bão tố làm hại thuyền nhân, cuối cùng bị Long Quân giết.

Dân gian thường kể chuyện Thần thuồng luồng bắt cóc phụ nữ, hay đòi phải hy sinh nhân mạng. Nguyễn Dữ, thời Mạc, trong Truyền kỳ mạn lục kể chuyện thần Thuồng Luồng ở một đền thờ tại quận Hồng Châu, Hải Dương, bị kiện vì tội bắt cóc Trịnh Thị, bị Long Vương trị tội, phạt lưu xứ : ” giữa ban ngày, không mây mà mưa, nước sông đầy, rồi có một con rắn dài mười trượng, vẩy biếc mào đỏ nổi trên mặt nước mà đi lên mạn Bắc, đàng sau có hằng trăm con rắn nhỏ đi theo, đền từ đấy không linh thiêng nữa “. Đền thờ Rắn ấy, sách gọi là ‘’dâm từ’’. Chúng ta lưu ý đến mào đỏ như trong cổ tích.

Người ta thường kể chuyện Rắn báo oán, nhân vụ án Nguyễn Trãi. Thật ra đây là truyện Tàu, chuyện Ngô Trân đời Tống và chuyện Phương Chính Học đời Nguyên, do một số nho sĩ thời Lê mô phỏng để giải thích, mờ xoá tấn thảm kịch chính trị thời đó. Một mặt nó xuyên tạc lịch sử, mặt khác hạ thấp tư cách Nguyễn Thị Lộ, và trầm trọng hơn nữa, phản ánh thành kiến với phụ nữ, đồng hoá phụ nữ với tai hoạ. Dĩ nhiên là sai trái.

Thạch Sanh- tranh Nguyễn Tư Nghiêm

Một con rắn lừng danh là Chằn Tinh trong truyện Thạch Sanh, truyện nôm bằng thơ. Chằn Tinh là một con rắn tu luyện nhiều năm, dữ tợn và biến hoá vô cùng ; vua bắt dân phải lập miếu thờ, hằng năm phải hy sinh một người con trai cho nó ăn thịt. Năm ấy Lý Thông bị chỉ định hy sinh, bèn gạt người anh em kết nghĩa là Thạch Sanh đi thế mạng. Thạch Sanh đương đầu với Chằn :

Giở ra cơm nắm toan ăn,
Hay đâu gió thổi ầm ầm rung cây.
Lại thêm gầm rú ghê thay,
Trông ra thấy một vật nay dị kỳ.
Thạch Sanh chẳng biết vật chi,
Trắng đen, xanh đỏ, hoe hoe cả mình,
Hung hăng giơ vuốt, nhăn nanh,
Phòng toan làm giữ như hình mọi khi.
Thạch Sanh hoá phép tức thì,
Búa rìu liền phóng một khi yêu xà.
Mắng rằng “ mày giống tà ma,
Hại người ta chẳng dung tha mày nào ! ”
Xà tinh liền nhảy xốc vào,
Thạch Sanh liền lấy thần đao chém liền.
Ai rằng rắn có phép tiên,
Hoá ra lửa cháy bốn bên đỏ ngòm.
Thạch Sanh hoá nước mưa tuôn,
Tự nhiên lửa tắt kinh hồn xà tinh.
Lại e yêu nghiệt tàng hình
Trốn đi nơi khác, ắt mình uổng công.
Bủa vây lưới sắt bịt bùng,
Nguyên hình rắn phải đùng đùng hoá ngay.
Chàng dùng dao báu chém rày
Rõ ràng con rắn vừa tày một gian.

(một gian : một gian nhà).

Truyện cổ dân gian, với những tình tiết na ná như Thạch Sanh, được lưu truyền nhiều nơi khắp thế giới. Riêng ở Việt Nam, các địa phương có những thoại khác nhau. Đặc biệt đồng bào Cao Bằng xem địa phương mình là gốc gác của truyện, căn cứ vào câu mở đầu “ ngày xưa ở quận Cao Bình ”, và ở Hoà An, Cao Bằng có hang, tương truyền là nơi Thạch Sanh chém Chằn Tinh và nhiều đền thờ Thạch Sanh ở các làng xã. Giả thuyết khác cho rằng truyện Thạch Sanh chém Chằn gốc Khờ-me.

Chuyện Thạch Sanh được đưa lên sân khấu : năm 1962, Dũng Hiệp phóng tác thành Tuồng cổ Dũng Sĩ Gốc Đa, đồng thời truyện cũng chuyển thành kịch bản cải lương, có năm được trình diễn ở rạp Maubert tại Paris, vào cuối thập kỷ 1960.

White Snake by Tanuki

Trên sân khấu dân gian, còn có tuồng hát bội Thanh xà Bạch xà được quần chúng miền Nam ham thích. Một chuyện tình cảm động : hai con rắn tu hành đắc đạo, thành đôi gái đẹp, yêu thương và lấy chung một người chồng. Sau đó, tình duyên trắc trở, người chồng lâm trọng bệnh, Bạch xà phải hiện nguyên hình làm rắn, trèo non lặn biển tìm thuốc trường sinh cứu chồng. Một chuyện tình huyền ảo, lãng mạn, xoá bỏ thành kiến về loài rắn.

Trong ca dao hình ảnh rắn thân thuộc với tuổi thơ là bài đồng dao trong trò chơi Rồng Rắn, được giới khảo cứu xem là xưa, có thể ra đời từ thời Lý Trần. Tùy địa phương, có nhiều thoại khác nhau, như ở quê tôi, miền Trung :

-Rồng rắn đi đâu ?
Xin thuốc cho con
Con lên mấy ?
Con lên một
Chưa ngon (…)

(…)

Cho xin chút lửa
Lửa tắt
Cho xin nước mắt
Nước mắt chua
Con xin càng cua
Càng cua kẹp
Cho xin chiếc nẹp
Nẹp gãy…

Suốt đời tôi bị ám ảnh bởi mấy câu đồng dao : sao lời hát cho trẻ con lại có những câu thảm thiết đến thế : cho xin chút lửa, lửa tắt. Cho xin nước mắt : nước mắt chua … Những câu thơ u uất của cả một kiếp người, trước cuộc đời phi lý và vô vọng. Và những câu thơ thật hay.

Cuối cùng, vùng Bình Trị Thiên có câu ca dao, như lời chồng mắng vợ :

Con rắn không chưng (chân) nó lượn năm rừng bảy rú

Con gà không vú nó nuôi đặng chín mười con

Anh tưởng em má phấn môi son

Ai ngờ má mỏng môi mòn thế ni… !

Mắng vợ là chuyện dũng cảm, trần gian hiếm có. Mắng vợ bằng những lời lẽ chì chiết ‘thế ni’ quả là cổ kim hãn hữu !.

Con Rắn không chưng…

Đặng Tiến

Orléans,Tết Quý Tỵ, 07.2.2013

.


1 V. Propp, Les Racines historiques du Conte Merveilleux, Gallimard, 1983, tr. 283

2 Nguyễn tài Cẩn, Về tên gọi con Rồng của người Việt, báo Diễn Đàn, Paris, số 94, tháng 3/2000, tr. 19

3 Nguyễn đỗ Cung, Bàn về Mỹ Thuật Việt Nam, Viện Mỹ Thuật, Hà Nội, 1993, tr. 117

4 Phan Ngọc, Thử xét Văn Hoá Văn Học bằng Ngôn Ngữ Học, bxb Thanh Niên, Hà Nội, 2000, chương II, tr. 61-128

5 Hùng Vương Dựng Nước, nhiều tác giả, Cuốn III, Hà Nội, 1973, tr. 241-242

Catégories
Prose

You Must Live

by KHAI HUNG
Translated from the Vietnamese by TRUC HUY

.

The dam of Yen-Phu, one summer afternoon.

It was the beginning of the rising, and the waters of the Red River were so tumultuous that they seemed to be on the point of swirling away the small island in the middle of the riverbed. Tree trunks and dead branches, torn away from the forest, floated adrift in the middle of a current of reddish water and formed like a continuous chain of small boats slipping at full speed toward an unknown destination.

Standing on the dam, Thuc, the mason, followed the wooden fragments with a glance of covetousness. Then, turning over, he looked fixedly at his wife in an interrogative air. Scrutinizing the river then the sky, the woman shook her head and said with a sigh :

– The wind is too strong, and there are increasingly big clouds in the horizon. It is going to rain, my dear !

Thuc also heaved a sigh. He made some hesitating steps. Suddenly, he stopped and asked :

– You cooked the rice ?

– Yes, but there is just enough for the dinner of both girls, she answered sadly.

They looked at each other in silence. Then, as though bewitched by an unspecified object or an obsession, they turned of the same movement toward the river : the tree trunks always floated and slipped at top speed in the middle of dark reddish waters.

The man had a vague smile and said to his wife :

– How about taking a risk ?

His wife shook her head without answering.

– Did you go to Mrs. Ky ? He pursued.

– Yes.

– And then ?

– Nothing. She says that she will pay only if we bring at first the wood. She doesn’t want to lend us beforehand money.

– Oh yeah ?

These two words had fallen as firm and precise as the last knocks of a mason’s trowel on a brick when he is building up a new wall.

Thuc decided to carry out an extravagant act, so he turned to his wife :

– Listen ! Why don’t you go home and take care of Bo ?

– Nhon and Be are already with him.

– I know, but it would be better if you were there also. Nhon is only five years old ; she cannot indeed watch her younger brother and sister.

– OK then. I’m going home now … You come along with me also. What’s the use for you to stay here ?

– All right ! Go ahead first. I will join you a little later.

Obedient, the young woman returned to the village of Yen-Phu.

ooOoo

The wife of artisan Thuc stopped at the doorstep of her house. The miserable aspect of the small, humid and gloomy house wrung her heart.

On a plank-bed, devoid of mat, the three children were very agitated, calling their mother with loud cries. Bo howled to claim his sucking ; he had nothing in the stomach since noon. Nhon, not having succeeded in calming him, was at the edge of tears.

– Go and fetch Mom so that she returns home to feed him, she had asked several times Be.

But Be did not want to go. She rolled about on the bed, pushing cries of rage.

The young woman hurried in. She took the infant in her arms and fondled him :

– Oh, my poor baby ! Mom left you for a very long time. You are very hungry and you cried a lot !

Then she sat down on the bed and breast-fed him. At the end of a few moments, as the child did not feel any milk coming, he rejected the nipple and began to cry louder than ever.

The young woman heaved a sigh. Her encircled eyes were clouded with tears. She got up and, by pacing up and down, rocked her infant with gesture and voice :

– Oh, my poor baby ! I don’t have anything to eat and don’t even have any milk for you !

The little boy, drunk of tiredness, fell asleep shortly after. As for the two older sisters, the mother had sent them to play outside so that their brother had a little calm to sleep.

Then, sitting in silence, Thuc’s wife reminisced about her life. Girl of the countryside, in the simple and ingenuous spirit, she had no imagination and was quite unable to put any order in her memory. The recollections, which she had been able to preserve, streamed higgledy-piggledy in her head, unclear and confused as the faces of a crowd on a photograph. One thing, however, emerged with clearness from this jumble : she remembered with certainty that never still, so far, she had been able to enjoy the slightest bit of the well-being and the rest that well-to-do people know.

At twelve, thirteen years old, the little kid Lac – it was her nickname – had begun as a help person in construction. Her life, in brief, was spent without surprises, day after day, month after month, year after year…

At the age of seventeen, she had met Thuc, who was employed as mason there where she worked. One had launched a joke ; the other had retorted on a tone of jest. Then they loved each other, and then they got married.

During the five years that followed, in their small, humid and gloomy house, at the inner lower part of dam Yen-Phu, nothing attractive had come to fill the insignificance in the life of this miserable couple. Their existence became even more miserable, when they had given birth, in three successive years, to three children. At a time when work was rare and wages were thin, although they toiled all day long, they did not manage to join the two ends to nourish the whole family.

Then, the previous year, at the time of the rising, Thuc had found a new idea to earn his living : he borrowed some money and bought a small boat, with which, every day, the couple had gone on the river to catch up the floating wood. Two months later, Thuc and his wife had paid off their debts and they even had excesses to spend.

That is why this year, they watched with impatience for the rise of the water level. Since the day before, their livelihood had returned with the swelling of the river.

At this point of her meditation, Lac smiled to herself. She gently laid down her child back on his diaper and went out of the house, on tiptoe. She headed toward the dam, as if she had made a decision to do something.

ooOoo

Arrived on the dam, she looked around for her husband but did not see him. The wind continued to blow and to roar. Streams mooed, powerful and fast like a torrent. She raised her head : the sky had become black.

She stood there, thoughtful. The pieces of her dress floated in the wind, making echo to the lapping of streams against the bank.

A sudden presentiment was born in her spirit. She anxiously tumbled down the dam toward the place where she knew the small boat was attached.

Arrived on the spot, she saw her husband busying to untie with much effort the embedded ropes that still retained the boat. Without a word, she watched at him working. When he had finished, she got in the boat, asking :

– Where do you intend to go, my dear ?

He stared at his wife and said with surliness :

– Why didn’t you stay home with the kids ?

Frightened, Lac stammered :

– The kids … they sleep.

– Why do you come back here again ?

– But … where do you want to go with the boat ?

– You don’t need to know. Go back home !

Covering her face, Lac started to cry softly.

– Why do you cry ? He gently asked her, very touched in his heart.

– Because you want to go and seek wood without me.

Thuc reflected. Scrutinizing the sky and the river, he said :

– You cannot come … It is very dangerous !

Lac laughed :

– It is also dangerous for you as for me ! Don’t worry. I know how to row.

– All right then ! He replied in an ice-cold tone that made Lac shiver.

The wind and the water were always so threatening. The sky darkened at every moment.

Thuc asked his wife :

– Are you afraid ?

– No.

ooOoo

They began by trying to bring the boat to the middle of the river, the man guiding the maneuver and the woman rowing. They tried to put themselves in front of the upstream, but the current countered them unceasingly, pushing them backward. Tossed by the waves, the boat now disappeared now reappeared at the crest of the muddy waves, such as a dry leaf of bamboo floating in the middle of a pool of blood, such as a mosquito flooded in a pot of red ink.

After half an hour, they reached nevertheless in the middle of the river. While the man firmly immobilized the boat using his perch, the woman caught up the floating wood.

The boat was soon almost full of wooden fragments. They got ready to return toward the bank, when the rain began to fall. Flashes of lightning tore the black clouds and the thunder shook sky and earth.

The small boat was filled with water, and the frail skiff threatened to sink at every moment. Although they tried to row with all their might, the strong current deported them ceaselessly…

All of a sudden, the man and the woman shouted at the same time :

– Oh, my God !

The frail boat had turned over. The freed logs had joined now the procession of their colleagues, and they all together slipped inexorably forward and pulled the capsized boat into their suite…

Thuc, while swimming, asked his wife :

– Do you think you can swim to the bank ?

– Yes, she answered with assurance.

– Let yourself carried by the current and benefit from the waves !

– Yes. Don’t worry for me !

Dreadful flashes of lightning always streaked the sky and rain continued to pour down. Thuc and Lac had the impression to be thrown in a bottomless abyss. A few minutes later, as Thuc saw that his partner showed sign of weakness, he got closer to her and asked with anxiety :

– Is it all right ?

– Yes. Don’t worry !

Hardly had Lac finished her sentence that her head plunged into the water. In a desperate effort, she returned to the surface. Thuc rushed in for her help. Then, supporting her with an arm, he swam with the other one. She gave him a smile full of tenderness. He also smiled back to her.

A few moments later, he admitted :

– I’m tired. Hold my shoulder and let me swim ! I cannot support you any longer.

A few more minutes passed. Thuc felt more and more exhausted. His both arms were broken with tiredness. Lac gently asked him :

– Can you continue to swim ?

– I don’t know … Alone, maybe.

– In that case, I’ll let go so that you’ll be able to regain the bank…

He made a smile :

– No ! We’ll die together !

One moment later, one moment that, for Lac, had been as long as one day, her husband asked again :

– Lac ! Do you think you can swim now ?

– No ! … Why ?

– Nothing. Alas ! Since we’ll have no choice, let’s die together !

Suddenly, the voice of Lac rose, trembling and weak :

– Bo, Nhon, and Be ! … No ! … You must live !

Thuc felt suddenly lighter, free of the weight that retained him. Upon thinking of her children, Lac had quietly taken the decision to release her hold on her husband. She let herself sink into the deep waters, to allow her man to regain the bank.

ooOoo

The light of street lamps reached up to the riverbank. The wind had dropped completely and waters became peaceful. There was there a man who lamented, holding a small boy in his arms. Two little girls were standing beside him. That was the family of mason Thuc coming there to make a last farewell to the soul of the woman who, for maternal love, had sacrificed herself.

In the immensity of the space, the Red River, indifferent, let its stream pursue its course, as forever…

.

– Translated from “Anh Phải Sống”, a title story from the collection “Anh Phải Sống” (You Must Live) by Khái Hưng and Nhất Linh, published in 1934.
– Khái Hưng (real name : Trần Khánh Giư, 1896-1947), was one of the most famous Vietnamese authors of the first half of the 20th century. In 1931, he met Nhất Linh (real name : Nguyễn Tường Tam, 1905-1963), the most important pre-war Vietnamese novelist, and the two founded, in 1933, the “Tự Lực Văn Đoàn” (Self Strength Literary Group). He contributed largely to ensure the literary revival in Vietnam during the pre-war period. Khái Hưng’s main works are :
– “Hồn Bướm Mơ Tiên” (Heart of a Butterfly in a Dream of Immortality) – 1933 (novel)
– “Đời Mưa Gió” (A Stormy Life) – 1933 (novel) (in collaboration with Nhất Linh)
– “Nữa Chừng Xuân” (Mid-Spring) – 1933 (novel)
– “Anh Phải Sống” (You Must Live) – 1934 (short stories) (in collaboration with Nhất Linh)
– “Tiếng Suối Reo” (The Whispering of a Brook) – 1935 (short stories)
– “Gia Đình” (Family) – 1936 (novel)
– “Tiêu Sơn Tráng Sĩ” (The Knight of Tieu-Son) – 1937 (novel)
– “Thoát Ly” (Separation) – 1938 (novel)
– “Hạnh” (Hanh) – 1938 (novel)
– “Thừa Tự” (Inheritance) – 1938 (novel)
– “Đợi Chờ” (Wait) – 1940 (short stories)
– “Đẹp” (Beauty) – 1940 (novel)

.

Catégories
Prose

Duyên Con Gái (1)

Áo Vàng (BP70)

.

.

Từ những năm tiểu học, cô học chung với một thằng bạn tên Tứ. Bấy giờ cô còn nhớ Ba Mẹ cô nói hắn là con cưng, con cầu tự nên mới đặt tên có nghĩa là trời ban cho… Ông bà Thăng là những người có danh phận trong thành phố. Bà Thăng hiếm hoi không sanh được con nên ông cưới thêm một người vợ, mọi người gọi là cô Thăng. Cô sanh được cho ông bà hai người con, nhưng con cái vẫn gọi mẹ ruột mình bằng cô….
Ông bà Thăng quen khá thân với Ba Mẹ cô. O Ấm vẫn thường hay qua chơi với cô Thăng. Những ngày nghỉ học, có khi cô theo O qua nhà hắn, lúc O và cô Thăng ngồi bên hàng hiên chuyện vản thì cô hay đi thơ thẩn trong vườn, nhìn hết gốc cây này đến chậu cảnh kia.

Tứ tánh tình hiền lành, nhưng tướng tá bự con nên cũng thuộc hạng ngầu trong lớp, ít ra cũng lịch sự với con gái, không theo phá phách đám nữ sinh như bọn thằng Tiến đầu bự hay thằng Nhân cà chớn.
Cô có chơi thân với hắn hơn những đứa con trai khác trong lớp đâu, vậy mà các đấng cha mẹ thì nghĩ rằng cô có cảm tình đặc biệt với hắn !
Khổ thân cô, chỉ vì một lần cũng theo O Ấm qua chơi, cô bày đặt khen cái nhà lớn quá, còn thòng thêm một câu, ước gì con được ở trong nhà này…
Mà căn nhà đẹp thiệt, cô vẫn nhớ từ ngoài đường vào nhà, cô đi qua sân đá lát gạch đỏ dài như vô tận, hai bên tường trồng đầy cây cối, nào hoa hồng hoa sứ đủ màu sắc, và những cây cảnh được cắt tỉa thật đẹp mắt….
Vô đến trong nhà, cô phải cởi dép để đi trên những tấm gạch bông mát rượi…
Thời đó nhà cô có cửa hàng buôn bán nên lúc nào cũng đông đảo ồn ào như vỡ chợ. Bởi vậy, mỗi khi đến nhà Tứ, cô mê cái vẻ yên tĩnh của vườn cây và ngôi nhà sang trọng, rộng mênh mông với nhiều phòng ngóc ngách mà một mình, cô dám bị đi lạc như chơi .

Những năm trung học cô vẫn chung lớp với ngần ấy bạn bè….
Trong lớp cô có nhiều người đẹp lắm, hắn mà lỡ dại có tình ý với cô thì kể cũng lạ…
Như nhỏ Nga, mới 16 tuổi mà đẹp lồ lộ, dáng dấp sang trọng như một mệnh phụ, bởi vậy đường học vấn bị rối loạn vì cây si trồng tưới xượi, không hàng lối… Cô cứ nhớ mỗi lần Nga rủ cô đi phố thì cứ y như là ra đầu đường, đã có một anh đứng chờ. Rồi thì anh tà tà đi theo hai đứa, chuyện trò đá qua đánh về với Nga, cô tự động biến thành chiếc bóng tàng hình … Cô ghét ghê và giận bạn nữa. Chẳng thà Nga nói trước với cô để cô lặn mất khi ra tới đầu đường thì tốt hơn, và hồn ai nầy giữ, đằng này con bạn lừa cô, làm bình phong khi ra đường … cô hết thèm đi phố với nó. Thế rồi Nga cũng bỏ bạn bè lên xe hoa về nhà chồng rất sớm.
Xây qua chơi với bọn Diễm và Thu, thì ôi thôi, chúng nó cuối tuần nào cũng đi nhảy đầm ở nhà mấy ông thầy. Muốn rủ rê cô đi chơi cùng, cô chần chờ chưa quyết định. Một buổi chiều thứ sáu, lúc bài tập được trả về, cô thấy một tấm thiệp kèm theo trong vở, thầy dạy Toán Mathieu mời cô đi party tối thứ bảy.
Ngạc nhiên mà chẳng mảy may vui mừng.
Cô hơi lo lắng không biết phải trả lời làm sao, nhưng rồi cũng lấy hết can đảm, cầm tấm thiệp lên cám ơn và trả lại cho thầy cuối giờ mà phập phồng thầy sẽ trù ếm mình suốt năm học còn lại. Nhưng rồi sự cố cũng qua đi nhẹ nhàng. Ai vui chơi thì cứ vui chơi tiếp, phần cô, kính sư … viễn chi.

Cô học trường Tây, cô thấy có vài đứa bạn còn tây hơn cả dân Tây trong trường. Nhưng phần đông bạn bè cô chơi thì làng nhàng giống cô, nghĩa là ăn mặc theo kiểu đợt sóng mới nhưng chưa đứa nào có bạn trai, học hành cũng siêng năng, thường ngoan hiền, còn biết vâng lời bố mẹ.

Đến năm cuối cùng, ngày có kết quả kỳ thi tú tài toàn phần, thấy tên mình trên bảng, cô mừng hết lớn, kéo bạn bè đi ăn khao đến tối mịt mới về nhà.
Mới ló mặt vào, Ba mẹ còn ngồi ở salon, gọi cô lại…
-Con Ti, cô Thăng mới ghé thăm ba mẹ, nói con với thằng Tứ lâu nay thích nhau, ông bà muốn xin đi hỏi con, rồi cho hai đứa đi du học, con nghĩ sao ?
-Hả ??? con thích hắn hồi nào ???
-Ba có biết đâu, nghe cô Thăng nói vậy !

Cô tức giận muốn xì khói ra lỗ tai, chực chạy sang kiếm thằng bạn để … mắng. May thời ba mẹ bắt ngồi xuống, hỏi rõ ngọn ngành … cô cũng bớt giận vì nghĩ ra chưa chắc anh bạn trong lớp cô biết ý định của ba mẹ anh. Nói phải tội, học chung mà nhiều ngày không nói với nhau một tiếng nữa, vậy mà cũng bị gán cho ’’tội’’ thích nhau … Thiệt tội cho hắn, mà cũng tội nghiệp cho cô nữa, mất duyên con người ta !!!

Những năm sau đó, mỗi lần nhớ chuyện cũ, cô vẫn còn giận hắn chút chút … cô chẳng nhớ chính xác Ba mẹ cô trả lời với nhà người ta ra làm sao, chắc đại khái con gái tui còn nhỏ ….

Và rồi cô không gặp hắn cho đến khi cô vào Saigon ….
Lúc cô học Nha 1, thì hắn vừa xong Y 2, dạo đó cô có tới mấy cây si bên Y … nhưng cô sắp có kép bên KH nên cô chẳng để mắt đến anh nào ….
Thằng bạn của cô vẫn hiền khô như ngày nào, và lần này gặp lại, cô quên mất chuyện cũ, bạn bè tay bắt mặt mừng … hắn đen đủi hơn vì mới vừa đi mấy tháng hè ở quân trường nên trông bớt công tử bột.
Hắn sốt sắng đem sách vở năm thứ nhất cho cô mượn, thuở đó năm thứ nhất Y Nha có nhiều môn học chung.
À, mà hắn có buông lời tán tỉnh cô bao giờ đâu ?

oOo

Dạo này, cô thường thấy tên hắn o­nline trên Yahoo sáng chiều … nhưng cô chẳng liên lạc với ai cả …

Nghĩ đến chuyện xưa, cha mẹ sắp đặt bậy bạ, chẳng hỏi ý con cái, may sao cô không đi mắng bạn lần đó … nếu không thì đã mất một người bạn rồi …

Còn cho cô thêm một bài học ’’mở miệng mắc quai’’, nhớ nhé …

Chắc hắn cũng sắp về hưu như cô nên rảnh rổi, ngồi gác máy hơi nhiều …

Áo Vàng

(trong tuyển tập Chuyện Cổ Tích Xanh)

.

.

. Hình : Internet

Catégories
Prose

Duyên Áo Vàng (2)

Trần Thiên Tứ (BP70)

.

.

Hắn bực mình, nhăn mặt vừa vặn to cái Radio trên đầu giường để át bớt tiếng cười hô hố, tiếng cãi nhau chí chóe như mổ bò của nhóm bạn đang vừa nhậu nhẹt, vừa đánh xì phé, ở cuối dãy phòng ngủ. Đứa thì quần Treilli, ở trần trùng trục, đứa thì quần cộc, áo thun ba lỗ, ăn nằm ngã nghiêng, vừa ăn, vừa nhậu, có đứa thì miệng thuốc lá phì phèo, tay cầm mấy con bài tây che che, nặn nặn, quyết ăn thua đủ… Ở giữa chiếu, một đĩa xíu quách lớn, những vỏ lon bia ngổn ngang khắp mọi nơi… một bãi chiến trường… Nếu chẳng may, có ai đó thấy được cảnh này thì còn đâu là danh tiếng Sinh viên quý tộc nữa, một tước vị mà vị Đ/tá Chỉ huy trưởng đã tặng cho những Sinh viên Quân Y thời bấy giờ. Mà không Quý tộc sao được ??? Khi mà tụi hắn là những Bác sĩ tương lai và sẽ nắm những chức vị chủ chốt trong Binh chủng Quân Y của Quân lực VNCH.
Hắn lắc đầu ngán ngẩm, chống tay tựa cửa sổ, nhìn ra ngoài, cố hít thở sâu để lấy sự mát lạnh của không khí do cơn mưa lớn ban chiều mang lại. Hắn mơ màng nghĩ đến 15 ngày nghỉ phép thường niên sắp tới và sẽ ra Đà Nẵng thăm nhà, mà đã hơn ba năm rồi chưa có dịp trở lại từ lúc vào Quân đội.

Tuần lễ vừa rồi đã mang lại cho hắn nhiều niềm vui. Hôm đầu tuần, có kết quả môn thi cuối cùng Vi trùng học của thầy Vũ Quý Đài, hắn không những đã đậu, mà điểm còn khá cao nữa. Thế là có quyền đi đặt Gallon mới, cầu vai màu bordeaux đỏ thẩm với alpha và hai gạch màu vàng chói. Trông oai vệ lạ !! Và ngày hôm qua, trong buổi thi lên đai Judo, hắn đã vào đòn Ogoshi thật ngọt lịm… Mà không ngọt lịm sao được, khi mà hắn đã tập cả hằng trăm lần đòn này rồi, chỉ tội cho thằng Trung, bạn tập với hắn, phải bị té ê ẩm cả người. Thế là hắn đã có đai cam rồi. Hắn tự mãn với chính mình và nói nhỏ :
Văn võ song toàn ! Khá !!!

Đang mơ màng về những thành quả mình đã đạt được trong tuần qua…
-Vào hàng !!! Phắc !!!
Hắn giật mình xoay người lại, chụm chân, chào một cái rụp khi thấy vị Đ/tá Chỉ huy trưởng, mặt hầm hầm, đang đứng trước mặt mình, ông chào lại rồi quay gót, rời khỏi phòng…
-Chuyện gì vậy ta ?
-Thấy mẹ rồi !!!
-Tao đã nói rồi mà tụi mày không nghe ! Đ/tá cấm ăn nhậu trong phòng ngủ và nhất là đánh bạc… một điều tối kỵ… Một đứa khác lên tiếng.
Hắn vẫn thản nhiên, tự tại, vì hắn có làm gì phạm pháp đâu mà phải sợ. Tụi bạn vẫn xôn xao, bàn tán như vỡ chợ…
-Đại đội 2 SVQY tập họp, trong vòng 5 phút, ở sân cờ vũ đình trường, với đầy đủ quân trang, quân dụng !!! Tiếng loa từ dưới nhà vẳng lên.
-Dính chấu rồi tụi bây ơi !!! Thằng Sơn nằm cạnh hắn thảng thốt kêu lên.
Hắn choàng vội bộ đồ treilli màu Olive treo trong tủ, vơ hết áo quần, nhét vào xách sac marin (túi vải của Quân đội để bỏ áo quần mỗi khi di chuyển), không quên đội thêm cái nón sắt nặng trịch mà từ lâu hắn không dùng đến, chạy đến giữa phòng, rút khẩu súng trường ở giá súng, tay súng, tay sac marin, phóng nhanh xuống cầu thang…
Không biết động tác này, tụi hắn đã thực hành bao nhiêu lần rồi, mà chỉ biết, không đầy năm phút sau cả đại đội đã ngay hàng thẳng lối, thấp trước, cao sau, súng ống đầy đủ, trước trụ cờ của sân vũ đình trường. Trước mặt hắn, toàn bộ Ban chỉ huy của trường Quân Y, Y sĩ Th/tá Thụy, Dược sĩ Đ/ Úy Anh…
-Chà !! Có chuyện lớn rồi đây, cũng vì tụi bạn cà chớn, trước ngày đi nghỉ phép mà còn gây thêm chuyện rắc rối, làm mất vui. Đồ cái bọn cà chua… Hắn rủa thầm.
-Những anh nào tham dự ăn uống và bài bạc tại phòng, hãy đứng sang một bên.
Một số lớn ủ rủ đứng sang một bên như gà mắc tóc, khác hẳn với hồi nãy thì hùng hùng hổ hổ… la lối om xòm…
-Theo lệnh của Đ/tá chỉ huy trưởng, những anh có tham gia ăn uống và bài bạc tại phòng sẽ bị cắt 15 ngày phép thường niên… và những anh còn lại… sẽ bị cắt phép 8 ngày !!!
Giọng của vị T/Tá rõ từng chữ một. Hắn không nghe lầm.
Hắn bước ra khỏi hàng, đến trước vị Th/tá, nghiêm chào và nói to :
-Th/tá Tiểu Đoàn Trưởng, SVQY TTT có ý kiến !
-Anh về hàng đi !! Vị Th/Tá nghiêm giọng, và tiếp :
-Anh chưa biết kỷ luật của Quân đội à ? Thi hành trước, khiếu nại sau !
Hắn uất ức trở về hàng, càng nghĩ càng thấy tức cho lũ bạn ngu xuẩn.
Sau gần 2 tiếng đồng hồ, khám tất cả quân trang, quân dụng, tụi hắn thất thểu về trại. Không còn tiếng cười nói như mọi khi.
Hắn thở dài, cam chịu, không buồn thay áo quần, buông mình xuống chiếc giường, nằm nhắm mắt, mệt mỏi. Những ngày nằm phơi bụng trên bãi biển Mỹ Khê hoặc đi bắt “thụt lùi”, một loại nửa tôm, nửa cua ẩn mình trong cát, mà những tay “nhà nghề” như hắn mới bắt được, đem nướng, ăn rất ngon, hay qua bãi Tiên Sa bắt những con cua lột trong hốc đá như khi hồi còn nhỏ.
Và nhất là được rong chơi với tụi bạn thời trung học trong bộ đồ quân phục oai vệ. Bây giờ hắn không còn là “con nhà kiều dưỡng”, là “công tử bột” hay tệ hơn là “sữa… Babylac” nữa . Có đứa còn ác miệng chọc hắn : “Công tử Bạc Liêu, đứt giây thiều, rớt xuống…”. Hắn ức lắm, nhưng cũng chưa hề đánh nhau với ai, vì chuyện này bao giờ…
Biển Mỹ Khê, biển Tiên Sa, gặp bạn bè để khoe “bộ vó” mới của hắn, bổng chốc tan thành mây khói.
Thằng bạn nằm giường bên khều nhẹ :
-Nè Tứ !
-Gì thế ? Mày để tao yên. Hắn gắt gỏng, mắt vẫn nhắm nghiền.
-Mày chỉ còn 7 ngày phép, ra Đà Nẵng có đáng không ? Giọng hắn vẫn đều đều.
-Tao có đề nghị này, hay là mày theo tao lên Đà Lạt đi.
-Để làm gì ?
-Thì đi kiếm đào chớ chi nữa, thằng này học quá, mụ cả người … Sơn nói nhanh,
-Con đào tao có con bạn thân đẹp hết sẩy, đang muốn tìm kép, tao thấy mày đúng tiêu chuẩn để nó chọn. Nó giở giọng đàn anh.
-Nhanh chân lên đi chú em ạ, liệu hồn, coi chừng ế vợ đó, nghe không cưng ?
-Tao ? Ế ? Hắn ngồi dậy sừng sộ,
Thằng bạn cười hề hề, giả lã :
-Thì tao biết… mày có ế đâu, nhưng mà già néo, đứt dây đó, nghe không ? Hai mươi mấy tuổi đầu rồi mà chưa một mảnh tình vắt vai… chá..án !!!!!
Hắn không thèm nghe, và cũng không thèm trả lời thằng bạn đang lảm nhảm bên tai.
Hai chữ “ế vợ” làm hắn vui vui, khi nghĩ tới đã có lần đi “hỏi vợ” bất đắc dĩ.

Hắn có một con bạn từ thời để chỏm, hắn cũng không nhớ quen con bé tự lúc nào và trong hoàn cảnh nào, chỉ nhớ nó hay đến nhà hắn chơi.
Nhà rộng, mỗi khi tới chơi, con bé thích lắm, chạy hết phòng này tới phòng khác, tò mò và khám phá… Con bé thật là dạn dĩ… có hôm còn thủ thỉ với mẹ của hắn :
-Bữa nào, cô cho con ở phòng này.
-Ừ, bữa nào con cứ chọn bất cứ phòng nào mà con thích… Mẹ hắn cười hiền, vừa vuốt tóc con bé. Từ ngày hôm đó hình như mẹ hắn thương mến con bé đó hơn. Hắn bực mình, và cũng từ ngày đó, hắn không muốn ai gọi hắn bằng cái tên ở nhà là Ti nữa, kể cả mấy chị người làm và chú tài xế Khôi.
Hồi xưa hắn khó nuôi lắm, người thì bé như cây kẹo, ốm tong teo, nên ba, mợ và cô hắn mới lấy tên này đặt cho. Lý do hắn không muốn dùng tên Ti ở nhà nữa, rất đơn giản, con bé ngổ ngáo đó cũng có tên giống hắn là Ti.
Thế rồi, dòng đời vẫn lặng lẽ trôi. Hắn trải qua một tuổi thơ sung sướng, hạnh phúc trong một gia đình đầm ấm và lễ nghĩa, trên thuận dưới hòa.

Hai đứa lớn dần theo thời gian và rồi cùng vào Trung học. Thuở đó, trong lớp hắn, có phong trào “kẹp đôi”.
Có nhiều cặp lắm, nào là anh chàng Long với cô Bắc kỳ nho nhỏ Lan, mít tờ Trương với cô nàng Hảo, anh chàng Hữu cao nghều với cô bé tí xíu tên Diễm. Hắn cũng không thoát ngoại lệ và bị dính cặp với… oan gia từ kiếp trước.
Không phải tại anh, cũng không phải tại ả, hay tại cả đôi đường ? Hắn chả biết, chỉ biết là trong lớp còn có cặp Dê xanh và Tứ mập thường làm đề tài để bạn bè trêu chọc.
Hắn thì ngượng nghịu, khó chịu, còn cô nàng thì mặt cứ câng câng, tỉnh rụi. Kể cũng lạ, con gái gì mà da mặt dày đến thế nhỉ ?
-Tứ ! Mi coi chừng nghen, ta về mét cô là mi chết đó, liệu hồn !!! Dê Xanh ỷ có quen biết “lớn” với mẹ của hắn, nên làm tàng, chẳng coi ai ra gì…
Hắn làm thinh, nhịn nhục… láng cháng, cô nàng dám về tỉ tê, ton hót với mẹ thêm thiệt thân mình. Tránh voi chẳng xấu mặt nào.
Hắn tự an ủi, mình là con trai, chả thèm chấp bọn con gái, tuy vậy vẫn ấm ức trong lòng…
Nhưng nói phải tội, cô bé cũng chưa bao giờ về mách mẹ nó điều gì cả và hình như, cũng chỉ muốn hù dọa hắn cho vui thôi và muốn chứng tỏ mình có quen biết lớn với mẹ của hắn… Kể ra số hắn, cũng vẫn còn may….
Trước Tết, cô bé đến nhà hắn, mượn quyển sách Vạn Vật mà hắn nhờ người quen vừa mua được ở nhà sách Khai Trí tận Sài Gòn. Trước khi ra về, cô còn thòng một câu xanh dờn :
-Nè !!! Đầu năm đầu tháng mà đòi sách là ta uýnh chết đó hỉ !!!
Không một lời cảm ơn, Dê Xanh dông thẳng…
Thiệt là con gái… ngang ngược… Thế là mấy ngày Tết, hắn phải ôn toán và vật lý, thay vì Vạn vật như đã định trước.

Năm thi tú tài, hắn có học thêm môn Vật lý tại nhà thầy Minh. Cũng vẫn mấy khuôn mặt cũ, nào là Hoàng vừa đẹp vừa học giỏi, con bé Diễm hay phá phách, con bé Hồng dễ dãi và vui tính, Trân thì khi nào cũng đạo mạo như bà cụ non, và cuối cùng là Dê Xanh, khi nào cũng “dữ dằn” và “tàn bạo”, mà chỉ “dữ dằn” và “tàn bạo” với hắn thôi, chứ với người ngoài là hoàn toàn khác hẳn, vui vẻ, liếng thoắng và bặt thiệp. Cũng có lẽ vì thế, mà mẹ hắn “khoái” con bé !!

Kể cũng lạ, từ nhỏ đến lớn, hắn cũng chỉ chơi và học chung với ngần ấy bạn gái thôi, chứ với bọn con trai thì hắn ít có sự liên hệ, nói chi là học chung và chơi chung. Hiếm có đứa bạn trai nào đến nhà nó chơi hoặc mượn sách vở như tụi con gái, hình như tụi con trai “tẩy chay” hắn vì không cùng sở thích, hay là tụi nó không muốn chơi với “con nhà kiều dưỡng” hay “công tử bột” vì sợ bị quê ? Điều đó hắn chả biết, có điều, trong thâm tâm, hắn cũng thích chơi với bọn con gái vì bọn chúng tương đối hiền lành và chăm học.
Trong đám con gái, hắn là đại diện duy nhất cho phái mạnh, nên tha hồ bị bắt nạt. Đôi khi thấy hắn tội nghiệp, các cô bé thường dúi cho hắn, khi thì miếng xoài xanh chấm muối ớt, khi thì quả Ô Mai mằn mặn hay me Cam Thảo cay cay, chua chua… Cho ăn riết thành quen, ăn quen thành ghiền… cho đến tận bây giờ…

Thành phố vừa có lệnh Thiết quân luật, thầy cho các em nghỉ sớm để về nhà kẻo nguy hiểm !! Thầy Minh nói lớn cho cả bọn cùng nghe.
Thời gian đó, ở Đà Nẵng thường hay có những cuộc biểu tình của sinh viên học sinh xuống đường chống chính phủ. Đám học trò xôn xao, bọn con gái nhát gan, lo thu xếp sách vở để về nhà cho sớm.
Hôm nay hắn không đi xe máy. Hồi trưa, ông anh họ vừa mới có bằng lái xe, muốn làm le, lấy xe nhà để đưa hắn đi học, đến giờ ông ấy mới đến đón. Bây giờ phải về sớm, không biết tính sao đây ?
-Tứ ! Lấy xe ta mà về nhà, bữa nào mang xe trả cũng được.
-Vậy chứ… Dương về nhà bằng cách gì ?
-Đừng lo, ta… về với nhỏ Diễm, nó ở gần nhà. Thôi về lẹ đi, kẻo cô lo.
Hắn thoáng cảm động trước sự nhiệt tình giúp đỡ của bạn, lấy xe của cô bé để về nhà.

-Tứ, con thay đồ đưa cô xuống thăm bác Quảng.
Ủa ? Có chuyện chi vậy cô ? (nghe đâu hắn thuộc dạng khó nuôi nên ở nhà bán hắn vào Chùa, cho nên từ đấy, hắn gọi mẹ ruột là cô).
-À… thì… tuần sau cô con mình đi Sài Gòn, con ở lại trong nớ, rồi đi Thụy Sĩ du học luôn, đâu có ra lại Đà Nẵng nữa. Con phải xuống chào bác trước khi đi du học, cho phải phép. Tội nghiệp ! Bác ấy cứ hỏi thăm con hoài.
-Dạ… thì… đi thăm cũng được, nhưng mà lỡ bạn bè thấy là chết con… Trong lớp, tụi bạn đã kép đôi con với con Dương quá trời rồi, bây giờ mà tụi nó thấy con lò mò tới nhà con nhỏ nớ là chết thiệt đó.
-Chết chi mà chết !! Thằng ni nói lạ… Mau lên, cô chờ…
Biết không thể lay chuyển được mẹ, hắn tiu nghỉu đành chở mẹ tới “nhà con Dương”.

Đến nơi, hắn chạy một cái ào vào nhà, sợ con Diễm ở nhà đối diện trông thấy. Cũng may, trót lọt, không bị ai bắt gặp quả tang. Càng may hơn nữa, chỉ có bác Quảng gái, ngoài ra không còn ai ở nhà, kể cả “khắc tinh “của hắn.
Sau lời thăm hỏi xã giao thường lệ, mẹ hắn mới nói lý do của buổi thăm viếng.
-Em đưa cháu Tứ xuống thăm anh chị để cháu chào anh chị. Tuần sau cô con em sẽ vô Sài Gòn để lo cho cháu đi du học. Không biết khi nào mới trở lại Đà Nẵng. Vậy mà cháu cứ lừng khừng…
-Ủa ? Sao lại lừng khừng ?
-Dạ… thì tại cháu dị. Tụi bạn trong lớp hay cặp đôi cháu với cháu Dương nhà chị…
-Ui chao !!! Được như rứa thì quá tốt, có chi mà dị. Rồi bác nói tiếp,
-Con trai phải mạnh dạn lên, con gái khi mô cũng thích lời dịu ngọt hết, mình phải chủ động tiến tới. Bác thuyết tiếp :
-Cứ như chuyện anh Quế với chị Manh cũng rứa, ưa mà không dám nói cho nên không thành, anh ấy phải đi xa làm bác mất một người rể quý, đất nước thì lại mất một nhân tài. Thôi, bác nói cho con nghe, nếu con không biết nói, thì cứ viết thư đưa bác, rồi bác đưa lại cho hắn. Viết thư dầu sao cũng dễ hơn là nói trực tiếp…
Trời đất quỷ thần ơi !! Hắn không ngờ câu chuyện lại tiến triển theo chiều hướng bất lợi như thế. Hắn chỉ biết vâng dạ ừ à cho qua buổi nói chuyện.
Cả mấy ngày sau, hắn lo lắng, ăn ngủ không yên, sợ cô nàng đi chơi về nghe chuyện, đến nhà tìm nó uýnh chứ chẳng chơi… Ai chứ Dê Xanh là chuyện gì cũng có thể xảy ra cả.
Một thời gian sau, cũng vẫn yên lành vô sự… Hú hồn…

Trong khi chờ đợi Visa để đi Thụy Sĩ, hắn vẫn phải ra Huế đăng ký ở ĐH Khoa học Huế, để có thể thỉnh thoảng về thăm nhà cho gần, trước khi đi du học.
Trường chưa khai giảng nên hắn vẫn tà tà đi Mỹ Khê tắm biển mỗi ngày, suốt ngày ngụp lặn với sóng biển, người đỏ như con tôm luộc.
Trong khi hắn hưởng thụ cuộc sống trước khi đi qua Thụy Sĩ, thì ở nhà, người lớn lại lo âu và buồn bả vì “thằng Tứ sắp đi xa”.

-Tứ ! Con định sao với chuyện du học ?
-Dạ, thì cũng đang chờ Nha Du học trả lời, có lẽ cũng sắp có kết quả.
-Không, ý ba muốn nói là vụ viết thư…
-Thư gì ba ?
-Thì… thư viết cho con Dương, rồi đưa cho nó…
-Ý trời !! Con với nó có chi mô mà viết thư !!!
-Không có chi mô, mà răng trong lớp tụi bạn chọc như rứa ? Không có lửa, làm sao có khói ??? Mà bác Quảng trên nhà đã cho phép rồi…
-Không có lửa, mà cũng không có khói chi hết, tự nhiên trong lớp có đứa mô dựng đứng chuyện nớ.
-Ba không biết, nhưng hình như cả mợ và cô đều sợ, qua bên đó, con lấy vợ đầm thì nguy. Thôi, có chỗ tử tế làm quen, rồi nhà cho hai đứa đi du học, chưa yêu cũng được, cứ đi qua bên đó, làm bạn với nhau, sau đó yêu nhau mấy hồi. Có rứa, ở nhà mới yên tâm cho con đi du học .
-Con còn nhỏ, yêu đương sớm quá làm sao mà học cho vô.
-Thì có ai biểu yêu liền bây giờ đâu, cứ từ từ qua bên đó sẽ tính… Mà ở nhà ba, mợ và cô cũng đã suy nghỉ kỹ rồi, không có ai xứng đáng cho bằng con gái út của bác Quảng bên nhà cả .
-Trời đất !! Hắn chỉ biết kêu trời và thầm nghĩ, các cụ mà rước con Dê núi, à quên Dê xanh này, về làm dâu thì có ngày các cụ ắt sẽ đau lòng lắm, vì cậu con trai cưng sẽ bị hắn húc chạy dài dài…
-Con cứ suy nghĩ cho thật kỹ, rồi nói ra ý kiến của mình để mọi người cùng nghe. Tạm thời, ngưng tất cả các thủ tục về việc du học lại… Khi nào rõ ràng rồi, thì lại tính tiếp.
Chưa bao giờ hắn thấy ông cụ quyết liệt như vậy cả. Hắn biết tính ba hắn, mỗi khi ông đã quyết định việc gì thì cả nhà phải tuân theo răm rắp, không tranh cãi. Và nhất là mợ, người mẹ lớn, hậu thuẩn vững chắc từ trước tới nay của hắn cũng đã bỏ hắn mà theo phe của ông cụ mất rồi.
Cuối cùng, hắn đành phải khăn gói quả mướp ra Huế du học vì lúc đó đã trể cho việc ghi danh học ở Sài Gòn.

Bạn bè thời trung học của hắn, một số đi du học, đa số thì ra Huế, có người thì học Luật, nhưng phần đông lại chọn Sư phạm Pháp văn, riêng hắn thì học dự bị Khoa học để sau này thi vào trường Y khoa.
Ngày nhập học, hắn bất ngờ gặp lại cô bạn khắc tinh của hắn, cô cũng học Khoa học và cùng lớp với hắn, lớp dự bị Y khoa 5.
Bất ngờ là vì trước đây có lần cô bé có cho biết là sẽ đi du học theo ngành Y khoa, ở Ý hay Thụy Sĩ gì đó, bây giờ sao lại ra đây, mà lại còn học chung lớp với hắn nữa.
Khi gặp lại, hắn có cảm giác là lạ, cô bé không còn vui vẻ và niềm nở hay “hắc ám” như xưa nữa và giữ khoảng cách nhất định với người bạn cũ.
Cả năm trời dù học chung lớp, hai đứa tránh gặp mặt nhau và cũng không nói với nhau câu nào.
Hắn thắc mắc, không biết mình đã làm điều gì để cô bé giận. Hay là vì lần đến thăm nhà cô của mẹ con hắn và câu chuyện của người lớn đã đưa đến một tình huống, không định trước làm cô bé bực mình.
Hắn định bụng sẽ hỏi rõ cô bé về việc này, khi có cơ hội. Và cơ hội này cũng không bao giờ đến.
Sau này xa Huế, hắn ân hận mãi vì đã không tạo ra cơ hội, để có dịp xin lỗi cô bé, hay ít ra là để đưa ra một lời giải thích nào đó.

Một thời gian sau, hình như cô bé có bạn mới.
Riêng hắn thì vẫn vậy, ngày hai buổi đến trường. Hắn cũng có bạn bè trong lớp, cả trai lẫn gái, đơn thuần là bạn học, chứ thân thiết thì cũng chẳng có ai.
Các bạn ở Huế hình như chưa bao giờ sống thật với lòng mình, họ chỉ sống với dư luận của thiên hạ xung quanh, sợ búa rìu của dư luận, làm việc gì cũng nhìn trước ngó sau.
Hắn thì bất cần, muốn cái gì thì làm cái đó, miễn sao mình cảm thấy vui và hạnh phúc là được và việc đó không ra ngoài sự giáo huấn và đạo đức của gia đình.
Có lẽ vì thế mà hắn không có bạn tâm giao ở Huế chăng ?

Niên học 70-71 trôi qua, một năm học nhạt nhòa, buồn tẻ, không sinh khí. Không có gì đáng nhớ để kể lại, ngoại trừ 7 trận lụt lớn nhỏ và 43 ngày đêm mưa dầm không dứt hạt, mưa theo kiểu Huế, rả rích và “buồn thúi ruột”, với cái lạnh buốt xương, lạnh từ trong ra ngoài và từ ngoài vào trong, mặc dù cũng áo ấm và mền len đầy đủ.
Hắn cũng không quên cả những ngày hè, trời nắng đổ lửa, với những ngọn gió Lào khô khốc và nóng bỏng làm rát cả da mặt.
Có những ngày, để tránh cái nắng nóng trong thành phố, hắn đem sách vở về nhà ở dưới quê để học cho mát.
Nói là về quê thì thấy xa xôi, chứ quê hắn cũng không xa thành phố Huế là mấy, chỉ cần qua Vỹ Dạ, đến cầu chợ Mai quẹo vào là tới nơi. Làng của hắn là Nam Phổ, có hai đặc sản là cau để ăn trầu và cũng để đi hỏi vợ : “Con gái Nam Phổ ở lổ trèo cau”. Có lẽ chỉ có những người ở Huế mới biết và hiểu ý nghĩa của câu này.
Còn đặc sản thứ hai là bánh canh. Bây giờ xa Huế đã lâu rồi, khi nhớ lại tô bánh canh sền sệt và nóng hổi, hắn vẫn còn thòm thèm, sợi bánh canh trong suốt, những miếng chả tôm với gạch cua màu cam cam, chan thêm tí nước mắm ngon, thêm vài lát ớt xanh Chỉ Thiên thơm lừng, thật là “nhức răng”. Chỉ tổ làm giàu cho các Nha sĩ !!
Về nhà vườn, hắn thường treo võng giữa hai cây cau, dưới tán cây vú sữa bên hông nhà, vừa nằm đu đưa, vừa học bài. Ở nhà không có ai, o Thông đi ra chợ buôn bán tối mờ mịt mới về đến nhà. Căn nhà và sở vườn được ba hắn giao cho o trông coi đã mấy chục năm nay rồi. Chồng và con mất sớm, o ở vậy, thủ tiết thờ chồng và con.

Đó là một căn nhà vườn kiểu Huế, 3 gian 2 chái, nằm lọt thỏm trong một khu vườn cây ăn trái, nào là thanh trà, mít, nhản, ổi, khế ngọt… Nhưng hắn vẫn thích nhất là cây đào tiên ở cuối vườn, trái màu trắng như sữa, ngọt như đường phèn và thơm ngát như mùi nước hoa của các cô gái.
Từ nhỏ, hắn mê nhất cái hồ cá có hòn non bộ trước sân nhà, với những con cá mắt lồi, đen có, đỏ có, và những chú cá Hòa Lan đủ màu sắc tung tăng bơi lội, lấp ló dưới những cánh bèo. Có bữa hắn mê ngắm cá quên cả ăn.
Căn nhà đã có từ thời ông cố, đến đời hắn là cũng đã thế hệ thứ tư rồi. Căn nhà trên, nơi dùng để thờ phượng, có bộ tràng kỷ dài bằng gỗ mun đen bóng. Ba và các chú thường ngồi ở đó để bàn chuyện kỵ giỗ, chuyện chạp họ… Lẽ dĩ nhiên hắn cũng ngồi kế bên để hóng chuyện, vì hắn là đích tôn, vừa là trưởng họ, sau này sẽ thay mặt ba để làm những chuyện này. Chức vụ hắn cũng lớn lắm, chứ đâu phải chơi.
Còn nhà dưới dùng làm phòng ngủ, và cũng là nơi để mẹ hắn và các thím lo việc bánh trái, nấu nướng trong những dịp kỵ giỗ. Mỗi người lo mỗi món.
Nhà hắn ở Đà Nẵng và chỉ ra Huế vào những dịp kỵ giỗ hay chạp họ. Đó là dịp, hắn trốn ngủ trưa để cùng mấy đứa em con ông chú đi bắt mấy con ve sầu bằng mủ cây mít, hoặc đi đào trùn để câu cá lòng tong ở cái hói phủ đầy bèo (con kênh nhỏ) sau lưng nhà. Những thú vui đượm chất dân dã, mà ở Đà Nẵng, hắn không bao giờ hưởng được.

Năm học được kết thúc bằng một thất bại thảm hại. Thời đó, các nam sinh viên phải đi học quân sự mười mấy tuần trong thời gian hè, theo chương trình Quân sự học đường. Khi có chứng chỉ quân sự rồi, sau đó mới được ghi danh để tiếp tục chương trình đại học của mình.
Năm đó, toàn thể các phân khoa của viện đại học Huế, chỉ có 4 sinh viên trượt vỏ chuối khóa quân sự. Người ta không dán bảng của những người đậu, mà lại dán bảng “vàng” của những người “đậu cành mềm”.
2 người ở Luật, 1 ở Văn khoa, người thứ tư chính là hắn, đại diện duy nhất cho Khoa học.
Kể ra cũng oai, vì mấy khi mà cả viện đại học lại biết được tên mình !!!
Cũng may, anh Luân anh họ của hắn, có chức vụ khá cao trong quân đội, đã can thiệp, nên hắn khỏi bị đi học quân sự thêm lần thứ hai.

Con quyết định rồi, năm tới con sẽ nộp đơn thi Y khoa Sài Gòn.
Cả nhà sững sốt, ngưng ăn và hỏi lại :
-Hả ? Con nói gì ?
-Năm tới con thi vào Y khoa Sài Gòn. Trước đây vì tính đi du học nên con mới ra Huế học, chờ ngày đi Thụy Sĩ. Bây giờ, không đi du học nữa thì con muốn vào Sài Gòn học.
-Vậy chứ còn Y khoa Huế thì sao ? Ba hắn hỏi lại.
-Thì con sẽ cố gắng thi vào Y khoa, nhưng Y khoa Sài Gòn chứ không phải ở Huế.
Bây giờ mợ hắn mới chen vào :
-Con có biết là thi vào Y Sài Gòn là khó lắm không ? Mợ có bà bạn, có đứa con cũng muốn thi Y khoa ở trong nớ đã mấy keo rồi mà cũng chưa đậu.
-Con biết là khó, nhưng con muốn thử một lần cho biết, chứ thấy khó mà không thi, thì làm sao biết được sức mình đến đâu. Nếu trong vòng 2 năm mà không đậu vào trường Y Sài Gòn, thì con sẽ về Huế học, học ngành gì cũng được, tùy gia đình.

-Tứ !! Con vô phòng ba, ba muốn nói chuyện với con.
Con phải nói thiệt với ba, con bỏ Huế một cách gấp rút và vội vã như rứa, chắc chắn là có chuyện gì quan trọng lắm, phải không ?
-Không có gì hết ba ơi ! Tại con chán Huế nên không muốn học ở Huế.
Ông cụ vẫn không tin, dỗ dành :
-Con phải nói thiệt thì Ba mới giải quyết cho, có ai hăm dọa hay làm gì con ?
-Con nói thiệt mà, ai mà hăm dọa được con…
Có lẽ ông cụ tưởng tượng một câu chuyện, với nhiều tình tiết éo le nào đó, đã làm đứa con trai yêu quý của cụ, phải bỏ của chạy lấy người…
Ngay tối hôm đó, hắn lấy chuyến bay cuối cùng của hãng Hàng không Việt Nam để vào Sài Gòn. Không buồn trở lại Huế để thu dọn đồ đạc và sách vở, hắn giao nhiệm vụ này cho chú tài xế Khôi lo giùm.
Thế là hắn từ giả Huế, không một lời giả biệt.

Thủ đô Sài Gòn, đầy sức sống và năng động, khi nào cũng ồn ào và náo nhiệt. Người Sài Gòn thì vui vẻ, nhiệt tình, cởi mở, hào sảng và khoáng đạt. Hắn có cảm tưởng như cá gặp nước.
Hắn vào Sài Gòn, ở tại nhà anh chị Luân để đi học.

Đó là một căn nhà villa biệt lập, có vườn khá rộng, trong khu vực dành riêng cho các cấp chỉ huy trong Quân đội thời bấy giờ.
Ngôi nhà cũng khá rộng rãi, nhưng nhà đông con, bốn gái đầu và bốn trai út, nên cũng khá là chật chội. Mặc dầu vậy, hắn cũng có riêng một căn phòng nhìn ra phía cổng ra vào, nơi có hai cây sứ, một cây cho hoa màu hồng, cây kia có hoa màu trắng. Hương hoa sứ thơm đến nức cả mũi, nhất là vào những đêm học khuya, có trăng thanh gió mát.
Sau lưng nhà lớn, có cả một dãy nhà dùng làm nhà xe, nhà bếp và nơi để mấy chú lính nghỉ lưng sau phiên gác.
Trước nhà để xe, có cây xoài. Hắn không biết cây xoài này đã được trồng bao nhiêu năm rồi mà nó lớn như cây cổ thụ, tàng cây che kín cả một khu vườn. Đến mùa, trái trĩu cả cành, trái rất ngọt, ở nhà ăn không hết, chị Luân phải cho người hái đem biếu bớt cho bạn bè và bà con, mỗi người một ít. Riêng hắn và các cô cháu gái thì thường nhắm vào cây đào (người Nam gọi là cây mận) trái đỏ tía, có trái quanh năm, vừa ngọt, vừa chua, vừa chát, chấm thêm tí muối ớt nữa là ôi thôi ! Tuyệt cú mèo ! Các cô cháu không dám leo trèo, chỉ có cách nhờ hắn hái giùm. Bản thân hắn cũng không thích leo lên cây vì sợ độ cao, nhưng mỗi khi các cháu nhờ, thì hắn cũng cố gắng. Không phải hắn vì các cháu, mà vì hắn cũng thèm…
Khi nhắc đến cây đào, hắn cũng không quên cây chùm ruột sau lưng nhà, cây tí xíu nhưng trái thì nhiều vô số kể, đủ để năm chú cháu rỉ rả suốt cả năm trời. Chùm ruột chua mà chấm với tí ruốc Huế nữa, thì còn gì bằng.
Cũng may, hắn đã được “tập huấn” kỹ với mấy cô bạn thời tiểu học và trung học cho nên hắn không cảm thấy “lạc lỏng” với bốn cô cháu tới tuổi thèm chua này.

Hắn bắt đầu có bạn bè mới và cảm thấy hợp tính, như thằng An, thằng Diệp, cùng chơi cùng học. Chơi cũng lắm mà học cũng nhiều…
Mấy đứa bạn khác thường gọi tụi hắn là ba chàng Ngự Lâm pháo thủ của thời đại, đi đâu cũng có nhau. An sửa soạn để thi vào Nha còn Diệp và hắn thi Y. Sau những đêm thức trắng để ôn bài, những buổi học chung của ba đứa để bổ túc kiến thức cho nhau, ngày thi tuyển đã đến…
Và vận may đã mỉm cười với cả ba đứa hắn, An đậu vào Nha, Diệp và hắn đậu vào Y.
Thật không biết làm sao để tả sự sung sướng của hắn lúc bấy giờ, không những chỉ sung sướng mà còn là hảnh diện nữa. Gần 2000 thí sinh đấu đá nhau, để dành 150 chỗ ngồi trong đại giảng đường và 50 ghế còn lại dành cho các bạn bên Nha, trong đó có cả bạn An của hắn. Vậy mà cả ba đứa hắn cũng kiếm được một chỗ để ngồi. Kể ra cũng khá !! Không hổ danh ba chàng Ngự lâm pháo thủ của thời đại.

Tin hắn thi đậu vào Y khoa bay về Đà Nẵng làm cho cả nhà vui mừng vô hạn. Hắn vui một, cả nhà vui mười và rộn ràng hẳn lên, kể cả mấy chị người làm và chú tài Khôi.
Một tuần sau đó, ba, mợ và cô vào Sài Gòn thăm “quý tử”.
Mợ ôm hắn, vừa hôn má hắn, vừa nói :
Con trai cưng của mợ giỏi quá, đã thi đậu rồi, mợ hảnh diện vì con lắm đó nghe !!
Mợ hắn vẫn “tây” như vậy.
Hắn ngượng nghịu trước những cặp mắt vừa chế diễu và vừa tinh nghịch của các cô cháu gái trong độ tuổi mới lớn, con gái của ông anh và bà chị.
Rồi bà xoay qua ba hắn :
Anh tề !! Con hắn thi đậu rồi, anh có chi để mà thưởng cho con không ?
-Thôi, mình mua cho con chiếc xe đi, chứ thấy con đi xe gắn máy ở Sài Gòn, xe cộ lại đông đúc, em không yên tâm. Cô hắn nhanh nhẫu chen ngang.
Đến bây giờ, ông cụ mới thủng thỉnh hỏi hắn :
-Con muốn hiệu xe gì ? Ngày mai rảnh, mình đi một vòng đến mấy đại lý bán xe để chọn kiểu.
Hắn trợn mắt :
-Ba, mợ và cô muốn mua xe hơi cho con à ? Con mới đậu vào Y khoa, không biết có học nổi không mà đã mua xe hơi, lỡ sau này, không ra trường được, thì quê chết. Chuyện mua xe để từ từ rồi tính, hiện tại con chưa cần xe hơi đâu.
Hắn buồn cười vì tính đốt giai đoạn của ba, mợ và cô hắn. Đậu tú tài thì lo chuyện hỏi vợ, cưới vợ, rồi đưa vợ đi du học, đậu vào Y khoa, chưa đi học ngày nào, thì đã lo chuyện mua xe hơi.
Dầu sao hắn cũng rất cảm động vì tình thương vô cùng bao la của ba, mợ và cô đối với hắn. Để đền đáp lại, hắn nguyện với lòng mình sẽ cố gắng học thật giỏi để khỏi phụ lòng ở nhà.

Năm thứ nhất chỉ có thể tóm tắc bằng một chữ Học…Học…và Học.
Buổi sáng có 4 giờ lý thuyết, chiều có 4 giờ thực tập trong phòng thí nghiệm, buổi tối, sau bữa cơm chiều, ôm Cours học bài cho đến tận 1-2 giờ sáng.
Thời gian đó, hắn không thấy trời, không thấy đất, chỉ thấy chồng Cours càng ngày càng dày thêm mà không cách nào thanh toán kịp. Ngay cả lúc đi hớt tóc cũng gắng ôm cours theo, cố học thêm một vài trang để lương tâm đỡ cắn rứt vì đã bỏ phí một buổi chiều Chủ Nhật.
Hắn không quên những buổi học trong đại giảng đường, có máy lạnh mát rượi, những buổi mổ xác nồng nặc mùi Formol ở khu cơ thể học. Cái mùi đặc biệt và khó tả này, mùi thịt tươi cọng với mùi Formol quyện lẫn vào cả chân lông và kẻ tóc, đã giúp hắn ăn chay trường suốt mấy tháng liền.
Hắn khoái nhất những buổi thực tập về mô học, được Cha Lichtenberger cho nghe nhạc classique. Vừa xem cấu trúc của tế bào qua kính hiển vi, vừa nghe nhạc cổ điển, thật là thú vị và thư giản.
Trong lớp hắn cũng có mấy cặp nam nữ, đi đâu cũng có nhau như bóng với hình, đi ăn, đi học, dò bài với nhau khi thì ở hồ Estomac (hồ có dạng hình dạ dày) sau lưng Đại giảng đường, khi thì ở lầu 3 khu thực tập Sinh hóa vắng người qua lại…
Vừa ôm đào, vừa ôm cours, thật đúng là siêu nhân !!
Còn hắn chỉ dám ôm cours mà thôi, như người đang lái xe không được phép uống rượu vậy.
Kết quả kỳ thi cuối năm đã có, hắn được lên năm 2. Các “siêu nhân” thì ngậm ngùi tiển người yêu lên lớp, còn các chàng thì ở lại, hy sinh vì đại nghĩa.
Đến bây giờ, hắn vẫn thật sự không hiểu các cô làm cách nào, mặc dù có kép, cũng vẫn cứ tà tà lên lớp được như thường. Thật đáng bái phục !!

Hôm nay hắn hẹn với Diệp, một trong ba Ngự lâm pháo thủ của năm trước đến trường Khoa học để ghi danh thêm mấy cái chứng chỉ cuối cùng để hoàn tất bằng Cử nhân Khoa học.
-Ê ! Tứ !!!
Hắn giật mình quay lại. Cô bạn gái năm xưa đang tươi cười đi lại phía hắn.
-Dương khỏe không ? Lâu ngày quá hỉ ?
Cũng hơn hai năm rồi, hai đứa chưa gặp lại, nên có nhiều chuyện kể cho nhau nghe. Hình như cô bạn đã hết giận hắn.
Cô cũng đi theo con đường của hắn, bỏ Huế để vào Sài Gòn, và sẽ thi vào Nha trong khóa tới. Hắn chúc cô may mắn và tiếc thầm, phải chi cô thi vào Y khoa thì hắn có thể cho cô mượn Cours để cô học trước, và chỉ dẩn cho cô những kinh nghiệm trong vấn đề thi cử.
Sau khi hai người từ giã nhau, Diệp, thằng bạn người Nam, bây giờ mới lên tiếng :
-Bộ hai đứa mày nói tiếng chim hả ? Tao hổng hiểu gì hớt.
-Ừ, tụi tao nói tiếng chim, mày làm sao mà hiểu được… Hắn vui vẻ trả lời bạn.

Đầu năm thứ hai, hắn có một quyết định bí mật và táo bạo.
Bí mật là ý định thi vào Quân y và táo bạo là cả nhà không ai biết chuyện này, ngoại trừ Niệm, thằng cháu “chí cốt” kêu hắn vừa bằng cậu, vừa bằng chú, bà con hai phía. Cha mẹ nó thuộc diện cháu ông lấy cháu bà. Thế là hắn chuẩn bị thi vào Quân y.

Lý do vào Quân y thì nhiều, nhưng tựu trung thì có mấy lý do chính như sau :
-Hắn muốn sống tự lập, nhất là tự lập về tài chính. Vào Quân y có nghĩa là mặc đồ lính, học Y khoa và… lảnh lương Trung úy. Tự lập, không cần sự tài trợ kinh tế của gia đình trong thời gian đi học, cũng là một điều thú vị.
-Thời đó, các nam Bác sĩ lúc ra trường đều phải bị động viên, mang lon Trung úy trưng tập, nghĩa là Trung úy … muôn năm.
Còn trường hợp của hắn, nếu thi đậu vào Quân y, khi hắn ra trường sẽ là Trung úy hiện dịch và phải phục vụ cho Quân đội suốt đời, sẽ thăng chức theo công trạng và theo thâm niên quân vụ, biết đâu sau này sẽ lên chức Tá hay Tướng !!
Trước sau gì cũng bị đi lính cả, thôi thà vào hiện dịch để có cơ hội còn thăng chức, thay vì Trung úy muôn năm… chán !!!
-Hắn vốn dĩ mê biển từ nhỏ, thèm cái vị mằn mặn của gió, tiếng rì rào của sóng, thích ngắm những tia sáng đỏ rực đầu tiên buổi rạng đông, hoặc ánh tà dương của buổi hoàng hôn trên biển vắng. Cho nên hắn cố gắng làm thế nào, khi tốt nghiệp, điểm thật cao để có thể chọn binh chủng Hải quân, với bộ quân phục trắng toát, với cầu vai màu đỏ thẩm, và với chức vị dài ngoằn, Hải quân Y sĩ Trung úy…
-Lý do cuối cùng, nhà có hai anh em, bây giờ hắn đi lính, đương nhiên em hắn được miễn dịch vĩnh viển, theo luật Tổng động viên thời bấy giờ.

Và rồi hắn thi đậu vào Quân y.
Để giải thích thời gian vắng mặt cho 9 tuần huấn nhục sắp tới, hắn buộc lòng phải nói dối với anh chị Luân là phải đi tham gia công tác Y tế, về các tỉnh miền tây một thời gian khá dài.
Đồng lõa của hắn, thằng cháu Niệm, có nhiệm vụ mổi ngày đến trường Y khoa để “tiếp tế” cho cậu. Khi thì ổ bánh mì Ba Lẹ, khi thì vài cái bánh bao Cả Cần, hay mấy ổ bánh mì gà Bưu điện. Điểm hẹn là tầng lầu 3, khu thực tập sinh hóa, nơi ít người qua lại !!!
Thú thật, hắn vẫn chưa quen với khẩu vị phần ăn của lính !!
Ngày qua ngày, cậu cháu vẫn hẹn gặp nhau đều đặn, cậu nhận tiếp tế, cháu nhận “chỉ thị”… cho ngày hôm sau. Cũng may trường cháu Niệm lúc đó cũng chưa khai giảng, nên cháu có thể hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ mà cậu giao phó.
Đúng là “công tử” đi lính.

-Cậu đặt tôi vào thế khó xử. Hai bác và cô giao cậu cho tôi, bây giờ cậu tự ý vào Quân đội, tôi biết nói sao với ở nhà ? Anh Luân có ý giận khi biết được chuyện này .
-Thì em có làm điều gì xấu đâu, chuyện đi lính em cũng đã suy nghĩ kỷ rồi.
Anh em mình, bây giờ kiếm cách nói thế nào để ở nhà khỏi lo, chứ anh trách em thì có ích gì…
-Đáng lý cậu phải bàn với tôi trước… Cậu đặt tôi vào sự đã rồi.
-Bàn trước với anh để anh can thiệp với Đ/tá CHT, đánh rớt em trong cuộc thi tuyển vào Quân y à…
Anh Luân cười xòa, có vẻ bớt giận :
-Thôi, để tôi kiếm cách nói với hai bác và cô ngoài nhà. Cậu này thiệt là…

-SVQY TTT Đại đội 2, có người nhà cần gặp ở Hội quán. _ Tiếng loa của SV trực vang lên.
Hắn xếp lại sách vở, xin phép vị Đại úy giảng viên dạy tiếng Anh, để về Hội quán gặp người nhà và thắc mắc không biết ai tìm mình vào giờ này.
Thời gian đó, các SVSQ Quân y tụi hắn phải học thêm Anh văn do các giáo sư trường Sinh ngữ Quân đội đến dạy vào mỗi buổi tối.
Trong hội quán, hắn giật mình khi thấy ba và cô hắn, cùng với Th/tá Thụy, Tiểu đoàn trưởng và anh Luân…
Gặp hắn, cô mếu máo :
-Sao vậy con ? Sao con lại đi lính ? Nhà mình đâu có thiếu tiền, mà con phải làm rứa ? Đi lính làm chi cho cực !!!
-Thôi cô, có chi mà khóc lóc, từ từ con sẽ giải thích về chuyện này.
Hắn đùa :
-Cô không thấy, bây giờ con đẹp trai hơn hồi xưa hay sao ? Hết mập rồi, cũng nhờ Quân đội đó.
Bà bật cười, mắng yêu con :
-Cha mi !!!

Một lát sau, Đ/tá CHT đến và mời cả gia đình, kể cả hắn, vào văn phòng của Ông để nói chuyện.
Ba và cô hắn rất muốn con được giải ngũ để trở về đời sống dân sự như trước đây. Vị Đ/tá giải thích chuyện đó là không thể được, nhưng tương lai ông sẽ chú ý đến hắn để nâng đỡ, trong thời gian còn đi học và còn ở tại trường Quân Y.
Hắn ngượng nghịu và khó chịu vô cùng vì thấy tất cả mọi người vì hắn mà phải bận tâm.
Còn anh Luân hứa với cô và ba hắn sẽ can thiệp cho hắn được về phục vụ trong một Tổng y viện sau khi ra trường trong một thời gian ngắn, rồi sau đó sẽ can thiệp cho đi tu nghiệp một khóa chuyên môn nào đó kéo dài vài năm ở Mỹ.
Thế là giấc mơ hải hồ của hắn tan thành bọt biển ngay trong trứng nước .

Sáng hôm sau, hắn đến trình diện Đ/tá CHT, trước là để xin lỗi Đ/tá về chuyện xảy ra tối hôm qua, và xin Đ/tá đừng làm gì để nâng đỡ, như Đ/tá đã hứa với người nhà của hắn… Hắn vốn không thích những đặc quyền, đặc lợi do sự quen biết mà có.
-Cậu… Đúng là Công tử thứ thiệt, phải không ? Rồi ông cười lớn, thân mật :
Tôi bắt đầu khoái cậu rồi đó !!!

Chiếc DC3 của hãng Hàng không Việt Nam chao cánh lần cuối cùng trước khi đáp xuống nhẹ nhàng trên phi đạo của phi trường Liên Khương Đà Lạt.
Trong khi Sơn nôn nao gặp đào thì hắn cảm thấy bình thản .
Đây không phải là lần đầu tiên hắn đến Đà Lạt, nhưng những lần trước thì hắn còn nhỏ lắm.
Hồi đó, ba hắn làm việc tại Sài Gòn, thấy hắn ốm yếu, nên thường đưa cả gia đình đi đổi gió, khi thì Đà Lạt, khi thì Vũng Tàu, mà thời đó người ta còn gọi là Cap Saint Jacques. Thường là đi cả nhà, có cả chị Hoa lo việc nấu bếp và anh Huề, lớn hơn hắn mấy tuổi, người làng Nam Phổ, nhà nghèo, được nhà hắn đem về nuôi cho ăn học và để chơi với hắn cho có bạn.
Khách sạn gia đình hắn ở lớn lắm, ở tuốt trên cao, muốn lên đó phải leo không biết bao nhiêu bậc thang mới tới. Hắn mỏi chân, nên thường bắt anh Huề cõng lên.
Hắn khoái nhất là đứng ở Balcon của khách sạn, nhìn xuống phía dưới thấy mọi người đi lại, buôn bán tấp nập.
Hắn sợ khi gặp mấy người mặc áo quần không giống người bình thường, mang gùi sau lưng, và nhất là khi thấy họ không có răng và tai họ to một cách dị thường. Anh Huề còn dọa thêm, đứa nào mà phá và chướng, không chịu ăn cơm thì mấy người đó sẽ nhét nguyên… trái bưởi vào bụng của nó .
Hắn sợ khiếp, co rúm cả người, không dám nghịch nữa và ăn hết chén cơm một cách nhanh chóng.

Sơn và hắn về thành phố, đón xe Lam lên khu cư xá Nữ sinh viên của viện Đại học Đà Lạt.
Cái không khí trong lành và lành lạnh của buổi sớm mai còn hơi sương ở Đà Lạt làm cho hắn cảm thấy sảng khoái vô cùng, khác hẳn với sự nóng bức ngột ngạt và ô nhiễm đầy khói xe ở Sài Gòn.
-Thôi mày vào kiếm đào mày đi, tao đứng đây chờ.
Sơn đi vội vào phía trong…

-Sinh viên Quân Y đến kiếm đào kìa !
-Của đứa nào vậy ta ??
-Không có đứa nào nhận, thì để đó cho tao.
Tiếng bọn con gái đùa giỡn, léo nhéo ở trong phòng làm hắn đỏ cả mặt.

Một lát sau, Sơn và bạn gái cùng đi ra, Sơn mặt mày nhăn nhó :
-Xui quá mày ạ ! Nguyệt mới về Nha Trang thăm gia đình chiều hôm qua.
-Anh lên bất thình lình quá, em không biết trước, tiếc thật ! Nếu không, em đã bảo con bạn em dời ngày về Nha Trang rồi. Bây giờ làm thế nào ? Thôi, hay là … anh đi chơi với tụi em cho biết thành phố Đà Lạt. Cô bé, bạn gái của Sơn, sốt sắng đề nghị.
Hắn cười lớn, ra mặt đàn anh :
-Thôi hai bạn cứ đi chơi đi đừng lo cho tôi, tôi tự lo được. Tôi đi theo, hóa ra tôi là người phá đám và là người vô duyên à !!
Sơn tươi hẳn nét mặt, vừa nheo mắt thầm cám ơn bạn đã không đi theo để làm kỳ đà cản mũi.
-Tối gặp lại ở khách sạn nha !
Hắn thả bộ trở về thành phố, việc đầu tiên là mua lại vé máy bay về lại Sài Gòn càng sớm càng tốt, kiếm cái gì lót dạ, rồi sau đó vào một rạp xi nê nào đó cho qua hết ngày.
Đà Lạt đẹp thật, nhưng đi khám phá thành phố mà đi một mình thì cũng chán.

-Ô kìa !! Ai thế kia ?? Đúng rồi, đúng con bé đó rồi !! Sao lạ thế kia ? Thay đổi nhiều quá, hắn suýt nhận không ra.
Bên kia đường có ba cô gái, cả ba đều mặc áo dài vàng. Trong đó có một cô, hắn biết mặt, biết từ thuở nhỏ lận, đang lúi húi chọn lựa mua sắm gì đó trong một cửa hàng.
“Áo nàng vàng anh về yêu hoa cúc,
Áo nàng xanh anh mến lá sân trường,”
Không biết vì hắn thích hai câu thơ trên mà hắn yêu áo vàng hay vì hắn thích áo vàng mà lại yêu hai câu thơ trên ? Chỉ biết từ nhỏ đã khoái ngắm mấy cô mặc áo dài vàng đi thướt tha trong gió.
Màu vàng của áo cũng giống như màu vàng của hoa mai, đài các và quý phái, biểu hiện sức sống của mùa xuân, của sự yêu thương và đoàn tụ.
Bây giờ gặp cả ba cô áo vàng khiến hắn ngất ngây…

Năm hắn học lớp 4eme hay 3eme gì đó (tương đương với đệ ngũ hay đệ tứ trường Việt) thường gặp cô bé học dưới lớp hắn chừng hai lớp. Nói là thường gặp, thật ra chỉ gặp mỗi tuần một lần, vào ngày thứ ba. Đó là ngày hắn có giờ thể dục, khi lớp hắn đến thì lớp cô bé giờ thể dục cũng vừa xong.
Hai lớp gặp nhau tại quán nước dưới gốc cây đa của bà Cai trường.
Cả đám con gái chen lấn, dành giật để cố mua cho bằng được một ly nước chanh để giải khát, sau giờ tập thể dục khát khô cả cổ. Và cô bé khi nào cũng là người cuối cùng nhận được ly nước chanh từ tay bà cai, vì không đủ sức tranh dành với các bạn cùng lớp.
Nói chung cô bé cũng không có gì đặc biệt, nếu không muốn nói là xấu tệ. Người thì đen nhẻm, tóc quăn tít, chân tay khẳng khiu, khi nào cũng với cái Jupe plissée màu xanh đậm, và cái chemise cụt tay màu trắng.
Trên đời này, thứ gì cũng vậy, cái gì dù có xấu đến mấy mà cứ gặp đều đặn thì cũng trở thành thói quen. Hôm nào không thấy cô bé như thường lệ, thì hắn lại cảm thấy thiêu thiếu và có ý đưa mắt đi tìm .
Gần cuối năm học, một ý nghĩ bất chợt và kỳ lạ thoáng qua trong đầu :
– Cô bé này xấu, nhưng có cái vẻ gì đó hay hay, vì sao hay hay, hắn không cắt nghĩa được, chỉ biết cô bé không tệ để có thể làm vợ của mình…
Thế rồi qua năm sau, hắn không còn gặp lại cô bé nữa. _ Có lẽ lớp cô bé đã đổi giờ tập thể dục. Và hắn cũng không cất công đi tìm .

Bây giờ gặp lại, cô bé đã hoàn toàn thay da đổi thịt…
Đà Lạt như là bà tiên có cây đũa thần đã biến một cô bé xấu xí, khô như con mắm thành một thiếu nữ trắng hồng và mơn mởn như thế kia.
Vẻ đẹp của cô làm tim hắn đập nhanh hơn… hồi hộp. Hắn bối rối…
Không biết mình có nên qua bên kia đường để làm quen và bắt chuyện với cô bé.
Phải chi cô đi một mình thì mình cố liều một phen, đằng này lại có thêm hai cô kia nữa… Khó thật !! Mà bọn con gái lại hay có tật ỷ đông, hiếp yếu lắm !! Hắn thì có tật nhát gái …Phải chi có thằng Sơn, nó sẽ chỉ cách cho hắn, dẫu sao nó cũng có nhiều kinh nghiệm vì đã trải qua không biết bao nhiêu là đời bồ rồi. Mấy vụ này nó rành sáu câu.
Mình qua làm quen như vậy có là đường đột, có sổ sàng lắm không ?
Biết bao nhiêu là câu hỏi, bao nhiêu cái phải chi trong đầu đã làm hắn bối rối và không biết xử trí như thế nào.
Ba cô gái đã mua sắm xong, rời cửa hàng và đi về hướng về Cư xá của nữ sinh viên, rồi mất dạng..
Hắn thầm tiếc, mình đã bỏ qua cơ hội làm quen với cô gái, mà hồi xa xưa, đã có lần mình có ý nghĩ sẽ lấy cô làm vợ.

-Dốt !!! Thật tao không ngờ có một thằng bạn ngu như mày !! Bỏ qua một cơ hội bằng vàng…
-Thì tao sợ mấy cô bé xem thường mình, là sổ sàng…
-Sổ sàng cái mốc xì, thằng bạn nổi cáu, rồi tiếp với giọng cao ngạo, bọn con gái sinh ra để tụi mình tán, biết không ? Mình không tán thì thằng khác tán. Nếu không có thằng nào theo là ê sắc ế ngay. Ở đó mà xem thường …
-Từ từ rồi tính, chứ bây giờ vướng vào mấy vụ nhớ nhớ, thương thương đó, cũng khó ra trường lắm, mà không chừng ra trường sớm cũng nên. Hắn chống chế một cách yếu ớt.
-Ai biểu mày kiếm mấy con nhỏ ở Sài Gòn làm chi, để nó quấy nhiễu mỗi ngày, làm không học được. Vì vậy, tao mới định giới thiệu em Nguyệt cho mày. Mỗi đứa mỗi nơi, lâu lâu nhớ, hẹn nhau gặp vài ngày thế là yên, chờ ngày ra trường. Sơn tiếp :
-Cứ nhát như mày thì ế dài vì luôn luôn chỉ là người đến sau, bọn con trai nhiều đứa nhanh tay lẹ chân, miệng lại dẽo quẹo… Bọn con gái thường hay khoái mấy đứa như vậy lắm.
Mày là bạn tao mà chẳng giống tao chút nào cả…
-Ừ !! Tao dại thiệt, đã bỏ qua cơ hội tốt. Hắn thẩn thờ, tiếc rẻ đã không đến làm quen và hỏi thăm nhà cửa của cô ở Đà Nẵng để sau này có dịp đến thăm.

Tết năm đó, hắn có 7 ngày phép đặc biệt để về thăm nhà. _ Hắn không báo trước, cố dành cho gia đình một sự bất ngờ thú vị trước ngày giáp Tết.
-Ngày hôm qua, cô đi chợ có gặp hai chị em con Dương. Gặp cô, con bé a lại nói chuyện, bỏ quên luôn cô chị. Nó hỏi cô, có chi gửi vô cho con không, để nó mang vô giùm. Nó thấy tội nghiệp cho con, Tết nhứt mà bị cấm trại, ở trong trại lính, không có chi vui, ăn uống cũng lôi thôi, làm sao mà bằng được như ở nhà.
Con nhỏ thiệt có tình và dễ thương chi lạ !!
Mẹ hắn vừa kể, vừa lột cái bánh chưng, hắn gắp lấy một góc bánh, bỏ vào miệng, nhai ngồm ngoàm, đánh trống lảng :
-Bánh ngon quá, ở nhà nấu hả cô ?
-Ừ, bánh nhà nấu, mới vớt bánh khuya hôm qua đó, bánh đang còn nóng… Con ăn đi…
Bà cụ đã quên mất câu chuyện vừa kể cho con trai.

Mấy ngày Tết, hắn chỉ quanh quẩn ở nhà, không buồn thăm viếng bạn bè, kể cả cô bạn đã có lòng tốt muốn đem quà Tết vào cho hắn .
7 ngày phép ngắn ngủi trôi qua mau chóng. Buồn bả, hắn trở lại Sài Gòn.
Đó là lần đầu tiên và cũng là lần cuối cùng hắn về thăm Đà Nẵng trong bộ quân phục của Sinh viên Quân y.

Mùa xuân năm 75, tình hình chiến sự ngày càng trở nên khốc liệt trên khắp cả 4 vùng chiến thuật. Tin tức bất lợi tràn về dồn dập…
Mặt trận Phước Long bị tràn ngập, tiếp đến Ban Mê Thuộc, Pleiku… Rồi cuộc triệt thoái bi thảm ra khỏi vùng Cao nguyên.
Quãng Trị, Huế, Đà Nẵng bị uy hiếp…
Những đoàn người mất thần và không phương hướng, đang cố tránh xa những vùng giao tranh ác liệt cố tìm đến nơi chốn an toàn.
rong thời điểm này, còn có chổ nào được xem là an toàn ?
Hàng trăm hàng ngàn người lênh đênh trên biển cả, biết bao người đã bỏ mình trên đường di tản…

Giữa tháng ba, có người quen từ Đà Nẵng vào Sài Gòn, cho biết nhà hắn ở Đà Nẵng, hiện nay là nơi tập trung của tất cả bà con ở Huế di tản vào, lên đến cả trăm người.
Hắn thắc mắc tại sao gia đình hắn lại không kiếm cách vào Sài Gòn trước khi tình hình trở nên tồi tệ hơn.
Điều hắn lo sợ đã xảy ra. Huế và Đà Nẵng thất thủ… mà gia đình hắn vẫn không thấy tăm hơi.
Buổi sáng, hắn vẫn phải làm việc tại bệnh viện. Tình hình chiến sự ngày càng khốc liệt, những cuộc giao tranh ngày càng đến gần thành phố, thì số bệnh nhân thương vong càng tăng và tăng theo cấp số nhân. Trong khi nhân viên Y tế càng ngày càng ít đi, một số Bác sĩ, Y tá và cả Sinh viên Y khoa đã bỏ nhiệm sở để tìm cách vượt thoát để đến bến bờ tự do, tìm đến những nơi an bình không có chiến tranh… Những người còn lại phải làm việc bằng hai, bằng ba để bù vào sự thiếu hụt nhân lực ấy.
Như ngồi trên đống lửa, hắn thường thất thểu ra bến tàu, vào mỗi buổi chiều, như người mất hồn, với hy vọng gặp gia đình hắn trên những chiếc tàu Hải quân há mồm, hay ít ra, gặp được người quen ở Đà Nẵng mới di tản vào để hỏi thăm tin tức của gia đình.
Hắn cũng không còn gặp anh Luân nữa, anh đã vào ở hẳn trong doanh trại, nên cũng khó gặp anh để hỏi tin tức nhà.
Chị Luân và các cháu đã đi di tản qua đảo Guam.

-Anh Tứ !! Toàn, tên Sinh viên Quân Nha 2, gọi lớn.
-Có gì vậy Toàn ?
-Cô Dương đang tìm anh !
-Ủa ? Cô ấy tìm tôi có chuyện gì vậy ? Toàn có biết không ?
-Dạ không, hình như cô muốn hỏi thăm anh chuyện gì đó.
-Cám ơn Toàn nhé ! Ngày mai, tôi sẽ ghé trường Nha để gặp cô ấy .

Trưa hôm sau, hắn ghé trường Nha để tìm bạn nhưng không gặp. Định dắt xe ra về thì có tiếng gọi sau lưng :
-Tứ !
-Dương, hồi nãy ghé trường Nha mà không gặp…
Hai người hỏi han về gia đình của nhau. Gia đình của Dương vào được Sài Gòn gần hết, chỉ trừ có o Ấm.
Khi biết được toàn bộ gia đình hắn bị kẹt lại và cũng chưa có tin tức gì, Dương cảm thấy áy náy và bối rối không biết nói gì, để an ủi bạn.
Riêng hắn thì mừng cho cô và cảm thấy buồn và tủi cho mình.
Hai đứa lặng im hồi lâu, Dương hỏi nhỏ :
-Bây giờ Tứ định sao ? Có định đi không ?
-Gia đình bị kẹt hết, nên không tính toán gì được cả. _ Dương ơi ! Với lại mình sinh trên đất nước này, thì có lẽ cũng chết lại nơi đây thôi.
Không biết nói gì hơn, hai đứa buồn rầu và chia tay. Đó là lần cuối cùng gặp nhau, và cũng kể từ đó, hắn không còn dịp nói lại tiếng chim…

-Tiểu đoàn SVQY tập họp !!
Vị Dược sĩ Đ/úy Anh đứng trước đoàn quân, lần này chỉ còn lèo tèo vài chục mống cả Y, Nha và Dược thay vì hơn 200 như những lần trước.
-Các cấp chỉ huy của chúng ta đã quên những lời hứa hẹn, đã rời hàng ngũ và đã bỏ rơi anh em chúng ta. Tôi triệu tập anh em lần này, có lẻ là lần cuối cùng anh em mình còn gặp nhau.
Đến đây, mắt đầy lệ, cố ghìm cơn xúc động ông nói tiếp :
-Chúng ta thật sự thua trận rồi, anh em nào có gia đình thì nên về với gia đình để lo liệu và giúp đỡ người thân của mình. Tôi chúc cho các anh và gia đình gặp nhiều may mắn… Còn anh em nào muốn ở lại cùng tôi, chiến đấu đến hơi thở cuối cùng thì hãy đến gặp tôi để nhận đạn và vũ khí.

Đa số các Sinh viên Quân y đã chọn giải pháp về với gia đình, hắn cùng khoảng 6-7 SV khác thì đến gặp Đ/Úy để nhận đạn, và sẳn sàng đón nhận cái chết.
Đứa nào mắt cũng đỏ hoe… cố kiềm chế để khỏi khóc thành tiếng.
Mỗi đứa được hai thùng đạn nặng trĩu và một quả lựu đạn.
Đạn thì để chiến đấu, còn lựu đạn để dành riêng cho chính mình, quyết không để bị bắt làm tù binh.
Khi nhận đạn, hắn và Đ/Úy ôm nhau, nghẹn ngào không nói nên lời ngoài hai chữ vĩnh biệt để chào nhau lần cuối.

Hắn muốn nhìn lại một lần cuối, nơi mình đã sống, ăn học với biết bao kỷ niệm vui buồn, những ngày gian khổ của những tuần huấn nhục.
Dãy phòng ngủ vắng lặng, chỉ còn lại mình hắn với bao nổi niềm…

Không biết giờ này gia đình hắn đã ra sao rồi, có được bình yên, hay đang lưu lạc ở phương nào ?
Hơn ai hết, hắn may mắn có đến những hai người mẹ, ngoài mẹ ruột của hắn là cô, còn có mợ, người mẹ vĩ đại, mà có lần, hắn vô tình đọc được nhật ký của bà, trong đó có câu : “Hôm nay là ngày 20/05/5., ngày con tôi ra đời bằng một cửa khác”.
Ba và cô có công sinh dưỡng, còn mợ đã giáo dục và dạy dỗ hắn nên người.
Cả ba người đã dành cho hắn một tình thương bao la trời biển, đã cho hắn cả một quãng đời niên thiếu êm đềm và hạnh phúc. Hắn nguyện cố gắng học thật giỏi, và sống một cách xứng đáng, cố mang lại niềm vui và hãnh diện cho gia đình, hầu đền đáp lại phần nào công ơn của cha mẹ. Bây giờ thì hết rồi, hết thật rồi, cho con xin lỗi…
Còn em hắn nữa, đang ở tuổi ăn chưa no, lo chưa tới, liệu có đủ nghị lực và trí khôn để bương chải với đời không ?
Đến đây, hắn không thể nào kìm hảm hai giòng lệ tuôn trào.
Hắn khóc… khóc không phải vì sợ chết, khóc vì đã đến giờ phải chia tay vĩnh viễn với gia đình, những người thân yêu nhất của đời hắn.
Xin tha lỗi và vĩnh biệt…

Hắn lau vội nước mắt và lôi quả lựu đạn từ trong túi quần, gắn vội vào thắt lưng, đeo khẩu súng M16 vào vai, xuống cầu thang, tiến nhanh đến đầu sân Vũ đình trường, nơi có nhiều công sự phòng thủ, để vào vị trí chiến đấu cùng với một số ít ỏi SVQY còn sót lại.

-Tứ !! Mày còn làm gì ở đây ?? Tiếng Hiền thảng thốt kêu lên.
Hiền là thằng bạn Quân y hơn hắn hai lớp, thường đi chơi chung với hắn và Hội, bạn cùng lớp với hắn. Bộ ba Tướng Sĩ Tượng, thường hay rủ nhau ra miệt Phú Lâm, ăn lẩu đầu cá lóc hấp, vừa được ăn ngon, vừa hưởng cảnh đồng quê gió nội sau giờ tập diễn hành cho ngày Quân lực. Đó là thú vui để thư giãn tinh thần của cả ba đứa vào những ngày thứ bảy đầu tháng, khi vừa mới lãnh lương xong.
Bắt đầu năm thứ hai, hắn ít khi gặp Diệp, thằng bạn thân năm một, vì không đi thực tập cùng bệnh viện, chỉ thỉnh thoảng gặp nhau ở trường Y, mỗi khi có giờ lý thuyết vào buổi chiều. An thì hoàn toàn không còn cơ hội gặp lại.
-Như mày thấy đó, tao… tử thủ !!
-Tử thủ ?? Thằng này điên thật rồi !! Mày theo tao, vào BV Bình Dân ngay, ở đó người ta đang rất cần người. Giáo sư Hy và GS Bảo có lên đài Phát thanh kêu gọi tụi mình vào đó gấp.
-Ở Bình Dân đang cần người, sao mày còn lang bang ở đây ?
-Tao về trại để lấy một ít đồ dùng, rồi sẽ trở lại đó ngay !! Mày hãy đi theo tao …
Hắn ngần ngừ chưa biết tính sao, Hiền hối thúc :
-Lẹ lên, tụi mình trước sau gì cũng chết, bây giờ giúp được ai, thì cứ giúp. Bệnh nhân đang cần tụi mình. Chúng ta không có quyền bỏ rơi họ trong hoàn cảnh này.
Nghe có lý, hắn leo ra khỏi hố phòng thủ, chạy nhanh về phía doanh trại, nơi hắn ở, để lấy một số đồ nghề khám bệnh và mấy quyển sách Y khoa…
Hai đứa hắn không quên nghiêm mình để chào lá Quốc kỳ màu vàng 3 sọc đỏ ở Vũ đình trường lần cuối cùng, trước khi rời xa vĩnh viễn trường Quân Y.
Cả hai, mắt đẳm lệ, và không ai nói với ai câu gì…

Một cảnh tượng hải hùng diễn ra trước mắt. Bệnh nhân nằm la liệt khắp mọi nơi, trong phòng, ngoài hành lang, và ngay cả ở thang lầu. Tiếng rên rỉ của bệnh nhân, tiếng la khóc, kêu gào kể lể của những người vừa mới mất người thân, tiếng kêu ơi ới của các nhân viên Y tế, tạo thành một mớ âm thanh hổn độn và não lòng.
Tiếng còi xe cứu thương hú lên từng hồi, tiếp tục đưa bệnh nhân từ các nơi về Bệnh viện, nặng có nhẹ có… Nhân viên Y tế thì chỉ có một nhúm ít người, mệt lả, cố gắng làm thế nào để cứu càng nhiều người càng tốt, bằng cách chỉ săn sóc và trị liệu cho các bệnh nhân có mức độ thương tích nhẹ, đòi hỏi thời gian trị liệu ngắn. Còn các bệnh nhân thương tích nặng hơn thì phải đành…
Chiếc áo blouse trắng tinh của hắn bây giờ đã trở thành nâu, một màu nâu của máu đã khô cứng. Mùi tanh của máu, mùi cháy khét của da thịt của bệnh nhân làm hắn lợm giọng.
Cũng may có chị Y tá làm cùng, thỉnh thoảng chị “tặng” cho “ông Thầy” viên kẹo Bạc Hà. Viên kẹo tuy nhỏ xíu mà cũng làm cho hắn sáng cả mắt và thấy tỉnh táo hẳn ra, cứ như là thuốc tiên.
Có lẽ là vì đã hơn 24 giờ làm việc cật lực, không ngưng nghỉ và nhất là cũng chưa có gì để bỏ vào bụng nên chỉ cần một viên kẹo nhỏ, cũng đủ tỉnh cả người.

-Ông Thầy !! Người nhà một bệnh nhân có mang vào một nồi cháo gà cho nhân viên mình…
-Của bệnh nhân nào vậy ?
Của bà cụ bị đạn ở đùi trái, mà ông thầy làm hồi sáng đó !! Chị Y tá nhắc cho hắn nhớ, chứ bệnh nhân nhiều quá làm sao mà nhớ nỗi.
Đó là tô cháo gà ngon nhất mà trong đời hắn được thưởng thức. Trước đây hắn vốn ghét cháo từ lúc còn nhỏ. Ngay cả khi bị đau, cũng không chịu ăn cháo, mặc cho mẹ nó hết lời năn nỉ và dỗ dành…
Bây giờ ăn một lúc hai tô cháo lớn, khỏe cả người và sáng cả mắt và tỉnh táo hẳn ra…

-Ông thầy là Quân y, phải không ? Bà Y công hỏi hắn.
Rồi bà tiếp :
-Ông cởi áo quần lính để tui cho đi đốt, tụi nó vào đến nơi rồi, ông còn mặc áo quần lính thì rắc rối lắm.
Hắn ta ngập ngừng :
-Cởi ra… rồi tôi mặc bằng cái gì ?
-Ông thầy mặc tạm bộ đồ này.
Bà đưa hắn bộ đồ bằng vải xanh dành cho Bác sĩ và Sinh viên khi vào phòng mổ. Bà nhắc tiếp :
-Ông mang dép vào đi, đưa tui đôi giày lính với cái thẻ bài nữa (dùng để ghi số quân và nhóm máu).
Thế là cuộc đời binh nghiệp của hắn chấm dứt từ đây, một cách đơn giản, không kèn và cũng không trống.

Tiếng chân chạy huỳnh huỵch xen lẫn với tiếng la hét, tiếng lên cò súng lách cách ngoài hành lang làm mọi người dừng tay, lo lắng nhìn nhau, không biết chuyện gì đã xảy ra.
Cửa phòng bật mở, xuất hiện 4, 5 anh bộ đội, nón cối, dép râu, súng ống đầy đủ, đằng đằng sát khí, sẵn sàng nhả đạn nếu có ai ra mặt chống cự, đi kèm còn có chị Y công làm ở phòng hồi sức trước đây. Hắn biết mặt chị này, thường ngày công việc của chị là chùi dọn phòng bệnh, lo các vấn đề vệ sinh cho bệnh nhân. Bây giờ sao trông chị oai vệ lạ, với cái khẩu súng lục đeo xề xệ bên hông và cái khăn rằn quấn trên cổ.
-Các anh Ngụy quân phải ra phòng ngoại chẩn để trình diện Ban Quân quản gấp. Chị ra lệnh dõng dạt, rồi từ từ đão mắt qua hắn và hất hàm :
-Còn anh kia, Quân y phải không ? Ra ngay liền ngoài đó đi !!
Bây giờ giọng chị sắc lạnh và đầy uy quyền khác hẳn với giọng lễ phép và nhỏ nhẹ như mọi khi.
Hắn yên lặng, không nói lời nào, cởi găng tay, ra khỏi phòng mổ và thoáng thấy ánh mắt đầy xót xa và thương cảm của chị Y tá đang nhìn theo.
Ra đến nơi, hắn thấy đám Quân y đang ngồi dồn đống trong một góc của phòng Ngoại chẩn. Sau khi, khai tên tuổi, chức vụ xong hắn được nhập chung vào bọn “Ngụy”, có nghĩa là “được” trói hai tay, hai chân, rồi được xếp ngồi bó gối trong một góc phòng, chờ đến giờ hành quyết…
Hắn tận dụng cơ hội để chợp mắt một lát để lấy lại sức, vì dầu sao cũng đã hơn hai ngày rồi chưa chợp mắt .
Ngoài hành lang, một số bệnh nhân và người nhà lấm lét nhìn tụi hắn, thắc mắc không biết vì lý do gì mà các Bác sĩ bị bắt và bị trói như thế kia.
Người ta giải thích, đối với bọn Ngụy có nợ máu với nhân dân này, cần phải cảnh giác cao độ, tránh trường hợp chúng nó điên cuồng chống phá, bằng cách đầu độc bệnh nhân, gây ảnh hưởng đến uy tín của Cách Mạng.
Đến bây giờ hắn mới cảm thấy hối hận đã nghe lời rủ rê của bạn cho nên mới lâm vào tình trạng nhục nhả như thế này. Thôi kệ, mặc cho số phận đưa đẩy…
Kẻ chiến bại phải biết chấp nhận mọi nỗi đắng cay và tủi nhục…
Ở ngoài hành lang, hắn thoáng thấy cô gái, người đã mang vào nồi cháo gà để “tiếp sức” cho nhân viên y tế tối hôm qua. Hình như cô muốn vào thăm đám “tù binh”, nhưng tên bộ đội canh gác không cho phép.

-Thủ trưởng của đồng chí là ai vậy ? Tôi muốn gặp !!
Bà cụ bệnh nhân của hắn, được cô con gái dìu ra tận phòng ngoại chẩn đang ra lệnh cho tên bộ đội đang đứng gác.
Một lát sau, “thủ trưởng” đến.
-Đồng chí làm việc, phải biết linh động để giải quyết vấn đề chứ !! Tại sao đồng chí lại trói các Bác sĩ như thế này ?
Tên cán bộ biết gặp sếp lớn, nhỏ nhẹ như cừu non, khác hẳn với thái độ hống hách hồi nãy :
Báo cáo đồng chí, bọn chúng là Ngụy quân, cần phải đề phòng chúng phá hoại Cách mạng !!
-Phá hoại ?? Thế thì ai sẽ điều trị các bệnh nhân bây giờ đây ? Đồng chí có làm được việc này không ?
Tên cán bộ ấp úng, không trả lời…
-Tôi lệnh cho đồng chí, thả tất cả các Bác sĩ ở đây và đề nghị đồng chí tạo điều kiện cho các Bác sĩ làm việc để phục vụ tốt cho bệnh nhân.
Nhờ có bà cụ mà cả nhóm thoát cảnh tù tội, riêng hắn thầm cám ơn tên cán bộ đã vô tình giúp cho hắn ngủ được một giấc khá dài, sau gần hai ngày không chợp mắt.
Mấy ngày sau hắn rủ thằng bạn hiền tên Hiền qua bệnh viện Chợ Quán làm việc, tránh tên cán bộ quân quản “hắc ám” ở Bv Bình Dân, sau khi bà bệnh nhân cách mạng xuất viện. Hắn sợ tên Cán bộ trả thù.

Mấy ngày nay, bầu trời Sài Gòn vần vũ và u ám, trần mây thấp, mưa phùn giăng khắp lối, hình như khí trời cũng nảo lòng đang sụt sùi và buồn thảm cho vận nước đang đến hồi suy vong.
Sài Gòn đổi chủ và một thời gian ngắn sau đó cũng đã thay tên và đổi họ.
Riêng hắn vẫn dùng tên Sài Gòn khi nói đến thành phố thân yêu đã cho hắn biết bao kỷ niệm vui buồn của thời sinh viên.
Hắn vốn nổi tiếng là chung thủy với tất cả mọi vấn đề…

Hắn được lệnh phải về trường, trình diện đi học tập cải tạo, dành riêng cho các Sv Quân y.
Về đến trường, hắn thấy lạ lẫm và bở ngỡ mặc dầu những công trình kiến trúc của trường vẫn vậy và không có gì thay đổi.
Lạ lẫm với cái lá cờ màu máu to tướng treo ở cổng trường, với những chủ nhân mới, huyênh hoang đi đi lại lại, với nón cối, dép râu, và túi xách đeo vai. Hình như các người chủ mới rất bận rộn, vì đang đi “lo việc nước”.
Một số cán bộ khác tập họp sinh viên để kể cho họ nghe tính “ưu việt” của chế độ xã hội chủ nghĩa. Đại loại như :
-Ôi !! Ngoài ta thiếu gì !! Thứ gì cũng có…
hay là :
-Ta đã gây giống thành công giống trâu sữa của nước anh em Cu Ba, trâu này cho sữa với năng xuất gấp 3, còn sữa thì bổ dưỡng gấp 10 so với sữa bò. Khoa học đã chứng minh như vậy. Ít năm nữa ta sẽ cho sản xuất “đại trà” (sản xuất hàng loạt) loại sữa trâu này và nhân dân ta sẽ được thừa hưởng thành tựu khoa học của nhân loại.
Tiếng ồ à, mắt mở to đầy thán phục của đám sinh viên làm tên cán bộ càng thêm tự đắc và khoái chí.
Riêng hắn thì cầu mong dân Việt Nam, sau này đừng vì uống quá nhiều sữa trâu mà trở thành trâu, để người ta cỡi đầu và cỡi cổ suốt cả cuộc đời.
Kể ra cũng lạ, sinh viên Y khoa là những người được xem là trí thức hay ít ra là những người có học của miền Nam mà lại tin vào những lời ba hoa về những truyện cổ tích có tính cách thần thoại và hoang đường như thế.

Trở về trường, hắn lơ láo như bần thần và ngơ ngác trước những sự thay đổi.
Bạn bè đứa còn đứa mất, đứa theo tiếng gọi của con tim và trí óc đã vượt thoát đến bến bờ tự do.
Có đứa hoàn toàn thay da đổi thịt.
Cô thì, áo bà ba, nón tai bèo, cổ quấn khăn rằn, trông giống nữ chiến sĩ giải phóng quân ở chiến khu D mới về thành phố.
Cậu thì diện nón cối và dép râu cho giống chú bộ đội cụ Hồ.
Các vị ấy mở miệng là rang rảng những bài chính trị sặc mùi sắt máu, có lẽ vừa mới học thuộc lòng ngay tối hôm qua. Nếu ai không biết, thì cứ tưởng đó là những cán bộ giảng viên dạy trường chính trị của đảng.
Hào khí cách mạng cao ngất trời !!

Thế là những buổi học chính trị cứ nối tiếp nhau, sáng thì học lý thuyết, học về lịch sử và lịch sử được bóp méo một cách thô bạo làm đôi khi, hắn tưởng đó là những chuyện cổ tích thần thoại.
Chiều họp tổ chính trị, người ta chia sinh viên ra từng nhóm nhỏ để dễ bề kiểm soát tư tưởng. Đó là những buổi họp phê và tự phê. Thoạt mới nghe thì thấy vô thưởng vô phạt, nhưng thực chất đó là những cuộc tố khổ, chụp mũ, ném đá dấu tay giữa những người mà trước đây từng là bạn học của nhau.

Hắn chán ngán, dật dờ như một cái bóng và cảm thấy mình hoàn toàn không thích hợp với thế giới này, thế giới của những mưu mô và thủ đoạn thô bỉ và hèn hạ. Hắn lặng im và câm nín và càng lặng im câm nín chừng nào, thì lại càng bị anh chàng tổ trưởng để ý bấy nhiêu.
Có lần anh chàng lợi dụng hắn đi trực đêm ở bệnh viện, làm bộ đến nhà thăm và gặp mẹ hắn. Bà cụ niềm nở mời bạn học của con trai mình vào nhà. Bà cứ nghĩ, đã là bạn học của con trai mình thì phải là người có học, tử tế và đàng hoàng. Và anh chàng đã khai thác bà để biết một số chi tiết thêm về hắn và gia đình để dễ dàng tố khổ bạn trong những buổi họp phê và tự phê sau này.
Hôm sau đi trực về, nghe mẹ kể, hắn thở dài ngao ngán, nghỉ thầm thế là con trai mẹ sẽ khổ rồi.

Trong tổ, hắn cũng không thân thiết với ai, ngoại trừ ba cô bạn bắc kỳ nho nhỏ, mỗi người mỗi tính nết và phong cách, Trân thì nghiêm trang và đài các, Thúy thì vui vẻ, thật thà theo phong cách của người miền Nam, còn người thứ ba là Nga dịu dàng, nhẹ nhàng và kín đáo.

Cô nào cũng thân với hắn. Chỉ có điều cả bốn người ít khi có dịp đi chung với nhau .
Có những buổi làm việc căng thẳng trong phòng mổ, những đêm trực thức trắng ở bệnh viện, khi thì với cô này, khi với cô khác.
Rồi cũng lại có một vài viên ô mai mằn mặn giữa khuya để cắt cơn buồn ngủ, hay cùng nhau qua gánh chè đối diện bệnh viện Bình Dân, ăn vội vài chén chè đậu xanh sau mấy tiếng đồng hồ làm việc căng thẳng trong phòng mổ.
Trong ba cô, người hắn chú ý nhất là Nga. Hắn vốn thích tính nhẹ nhàng, dịu dàng của Nga và nhất là khi cô đã giúp hắn trong việc chép cours.
Chữ hắn xấu như mèo cào còn chữ của Nga đẹp và rỏ ràng, lại còn gạch xanh xanh đỏ đỏ những đoạn quan trọng cần nhớ, cho nên mỗi khi học cours Nga chép, hình như hắn học bài mau thuộc hơn. Hắn áy náy nhưng Nga bảo đó là một phương pháp học bài mau thuộc và khó quên của Nga và từ đấy Nga tự nguyện chép cours giúp cho hắn.
Nhà Nga đầu đường, nhà hắn cuối đường Trương Minh Giảng, hai đứa thường đạp xe về nhà. Khi thì hai đứa đi uống nước mía ở đầu cầu Trương Minh Giảng, khi thì hắn ghé nhà Nga, chơi vài ván bóng bàn với hai chị em Nga, trước khi về nhà của mình.
Nhà Nga có ba chị em gái, cô chị đầu học Dược đã ra trường, Nga học Y, rồi đến cô em út hiện đang học năm thứ ba Nha khoa.
Thế rồi tình cảm lớn dần theo thời gian, hai đứa đi đâu cũng có nhau. Một cặp đang được hình thành, mặc dù hắn chưa một lần tỏ tình hoặc nắm tay nàng.
Thời gian hắn và nàng cùng thực tập ở khoa Mắt Bệnh viện Chợ Rẩy, lúc nhìn đáy mắt của nhau, xem vi ti huyết quản ở đáy mắt, mắt kề mắt, má kề má. Hậu quả tim hắn bị loạn nhịp… và không thấy huyết quản đáy mắt của nàng, chỉ thấy một màu hồng nhạt …
Cuối buổi hắn hỏi nàng :
-Nga này, hồi nãy Nga xem mạch máu đáy mắt… của tui thấy có bình thường không ?
-Nga không thấy gì rỏ cả !! Còn Tứ thì sao ? Có nhìn thấy gì không ?
-Cũng không thấy gì cả, chỉ thấy một màu hồng… và cảm thấy tim mình bị loạn nhịp… Còn Nga thì sao ?
-Vâng, Nga cũng như vậy… Nàng thẹn thùng đáp nhỏ.
-Bữa nào rảnh, tụi mình đi đâu đó chơi đi, tui… có chuyện này hay hay muốn nói với Nga.
Mắt cô sáng lên, cô thúc hắn :
-Sao không nói luôn bây giờ đi, Nga nghe, đâu cần phải chờ, hôm nay mình rảnh mà…
-Chưa đến lúc Nga ơi, chỉ một thời gian ngắn nữa thôi…
Cô bạn tỏ vẻ thất vọng.

Hắn quan niệm một tình yêu chân chính phải hướng đến hôn nhân, mà muốn tiến đến hôn nhân thì phải có sự đồng thuận của gia đình.
Một tháng rưỡi nữa là đến Tết hắn sẽ ra thăm nhà và cố gắng thuyết phục ở nhà về chuyện của Nga. Hắn đang lo âu…
Mợ hắn vẫn thường dặn :
-Trâu đồng nào, ăn cỏ đồng ấy, nghe con !!
Mà khổ nổi trong lớp hắn có bao nhiêu cô gốc Huế đâu. Chỉ có một cô, đã là hoa có chủ, mà người chủ chẳng ai xa lạ là tên Thắng bạn của hắn.
Hắn hy vọng tài thuyết phục, năn nỉ ỉ ôi của hắn thì gia đình cũng chấp nhận, với lại gia đình Nga cũng có con cái ăn học đàng hoàng… chứng tỏ một gia đình có nề nếp và giáo dục.

Trước Tết, tổ hắn đổi sang khu Ung thư bệnh viện Bình Dân. Khoa Ung thư lúc đó không có trưởng khoa, vị Giáo sư đã bỏ ra nước ngoài trước ngày mất nước. Một Bác sĩ đàn anh, mới ra trường đảm nhiệm quyền trưởng khoa, có chuyên môn tốt đã truyền đạt cho các sinh viên nhiều kinh nghiệm về bộ môn Ung thư.
Hắn nể phục tài năng của vị Bác sĩ trẻ tuổi kia.
Nhưng có một điều, hắn không phục tay Bác sĩ này, tuy đã có gia đình vợ con, tay bồng tay bế rồi, mà vẫn chạy theo các cô sinh viên đàn em, trong đó có cả Nga. Hôm nay anh chàng chạy theo cô này, mai theo cô khác.
Hắn lấy làm tiếc cho vị Bác sĩ đàn anh, tuy có chuyên môn cao nhưng lại không có phẩm hạnh, một đức tính cần thiết để trở thành một người thầy thuốc chân chính.

Ngày mai hắn sẽ ra thăm nhà trong dịp Tết. Chuyến đi này có tính cách quyết định cho việc tương lai. Hắn sẽ thưa chuyện của Nga và hắn với gia đình .
Mấy tuần nay hắn hoang mang vô cùng tận và không biết tính sao. Nga vẫn thường cặp kè với anh chàng Bác sĩ đàn anh kia tại bệnh viện, ngay cả trước mặt hắn.
Hắn nhất định đến nhà tìm Nga để hỏi cho ra lẽ.
Gần đến nhà Nga, hắn thoáng thấy bên kia đường, Nga và Bác sĩ Hùng đang đi nói chuyện vui vẻ…
Trước đây, hắn chỉ tưởng Nga chỉ vì muốn học hỏi thêm kinh nghiệm về chuyên môn nên mới theo sát đàn anh ở bệnh viện, bây giờ gặp cả hai người ở ngoài phố lại là chuyện khác nữa rồi.
Nếu Bác sĩ Hùng chưa có vợ con, đó cũng là lẽ thường tình, hắn sẽ không bỏ cuộc, quyết tranh đấu tới cùng, đằng này… Sao Nga lại làm vậy ?
Hắn đâm ra nghi ngờ sự thành thật của Nga và tự hỏi cô có còn muốn… lâu dài với hắn hay không. Tự hỏi mà không có câu trả lời…
Đối với hắn, việc gì cũng cần phải có sự minh bạch và rõ ràng, nhất là vấn đề tình cảm.
Tết năm đó, hắn ra thăm nhà và không hề đả động gì đến chuyện vợ con.
Thế là xong một cuộc tình.

Sau Tết, vào lại Sài Gòn hắn tránh mặt Nga, bằng cách đổi ca trực với thằng bạn, tuy thỉnh thoảng cũng còn gặp lại cô vào buổi chiều mỗi khi họp tổ kiểm điểm.
Hắn cố giữ mối giao hảo bình thường, tuy không còn thân tình như trước đây nữa.

Mẹ hắn thỉnh thoảng vào Sài Gòn xem cậu con trai cưng ăn học như thế nào. Mỗi lần vào, bà đều đi thăm các bạn bè cũ.
-Tứ ơi, cô có hình con Dương, bác Quảng gái mới vừa tặng cho cô hồi chiều.
Mắt bà nhuốm buồn khi đưa ảnh cho con xem.
Đó là ảnh đám cưới cô bạn hồi xưa. Hắn không nói gì, xem ảnh, thầm chúc bạn hạnh phúc… và có chút gì đó… thoáng bâng khuâng…

Thời gian này, hắn ở hẳn trong bệnh viện, thỉnh thoảng mới về nhà. Hắn tìm lãng quên trong công việc, tránh trở vềtrường Ykhoa, ngoại trừ có chuyện cần thiết chẳng đặng đừng.

Hắn vừa ra khỏi Bưu điện Tân Định, tay cầm tờ giấy có nội dung :
“Cô vào gấp – Nhà bị trộm”. Hắn vừa đánh điện về nhà.
Sáng hôm nay vừa từ bệnh viện về, hắn hoảng hốt khi thấy nhà mình bị kẻ trộm dọn sạch, không chừa lại một thứ gì, kể cả mấy quyển sách Y khoa mà hắn quý hơn vàng.
Những quyển sách mà những ngày sau 30/04/75 hắn phải dấu trên trần nhà, sợ các “nhà văn hóa” lớn của phường, những Tần Thủy Hoàng của thế kỷ 20, tịch thu và đem đốt trước cổng của ủy ban phường trong chiến dịch bài trừ văn hóa đồi trụy của Mỹ Ngụy.
Bây giờ có tiền cũng không thể mua lại những quyển sách như thế, tìm đâu ra. Hắn đau lòng khi nghỉ đến những trang sách bây giờ đang được người ta đem gói xôi ở một góc phố nào đó.

Ba hôm sau mẹ hắn vào. Câu đầu tiên của bà khi gặp con :
-Con phải lấy vợ, chứ không ở như ri được nữa rồi.
-Lấy ai ? Hắn buồn cười hỏi lại mẹ.
-Bữa hôm trước ở nhà có gặp ông Phương, ông bà muốn cho nhà mình con Nhung, ông nói con ni đẹp nhất nhà, nên ông đễ dành cho con đó. Ngày mai cô với con xuống nhà ông bà để xem mắt con nhỏ. Bây giờ là tính nhanh thôi, không có lôi thôi, nói tới nói lui chi nữa hết. Ba và mợ ngoài nhà đã đồng ý rồi. Con sống một mình là không yên rồi, phải cưới vợ gấp. Ngày nào con chưa có vợ là ngày đó cả ba thân già này chưa yên thân. Rồi bà mũi lòng và khóc sụt sùi…
Hắn làm thinh, không trả lời mẹ.
Nhung thì hắn biết, cô bé khá xinh lại có ngón đàn Piano điêu luyện.

Cô chú Phương là người quen biết lâu năm của gia đình. Cô chú tương đối còn trẻ so với ba, mợ và cô của hắn, thường đến nhà thăm viếng. Chú Phương người rất vui tính, ít ra là với người ngoài, chứ đối với con cái trong nhà chú lại là người rất nghiêm khắc. Con cái sợ chú như sợ cọp.
Nhà cô chú đông con, Nga cô chị đầu, tiếp đến là Cường, con trai duy nhất (cùng tuổi với hắn), sau đó thêm năm cô vịt trời nữa, mà hai cô út là song sinh giống nhau như hai giọt nước.
Không hiểu tại sao chú lại khoái hắn, khoái từ hồi nhỏ lận.
Lúc đó, hắn chưa thi tú tài, chú đã đề nghị thẳng với ba, mợ và cô hắn :
-Hai bác và cô nhắm con Nga cho thằng Tứ đi, con đó nó giỏi lắm, việc nhà hết xẩy, nhất gái hơn hai, nhì trai hơn một, hai tuổi đó hợp nhau lắm.
Hắn nghỉ bụng, rước cô Nga về để làm chị Hai à !!
Thấy hắn không nói gì, Nga bỏ đi lấy chồng.

Cô chị đi lấy chồng, Chú Phương nghỉ đến cô em là Liên :
-Nhà hai bác và cô neo người, có con Liên về làm dâu thì tuyệt, hắn còn lanh hơn con chị nữa.
Dạo ấy hắn đang học ở Huế, chú Phương muốn Cường, con trai của Chú, ở chung với hắn nên cả hai nhà thuê hẳn một cái villa ở đường Nguyễn Công Trứ, gần Chợ Cống, cho hai công tử ở để đi học.
Vài ba tuần, Liên lái xe đưa mẹ ra thăm anh Cường ở Huế.
Cường chở mẹ đi công chuyện, còn hắn có bổn phận và nhiệm vụ đưa Liên đi đây đó thăm những danh lam thắng cảnh của xứ Huế mộng mơ hay những di tích lịch sử của triều nhà Nguyễn trong thành nội.
Vào mùa nhãn, hắn lại đưa Liên về nhà vườn ở Nam Phổ để thưởng thức những quả nhãn lồng ngọt lịm .
Mặc dầu thường xuyên có dịp đi chơi đây đó như vậy, hắn vẫn xem Liên như là một cô em gái, không hơn không kém.
Sau gần một năm, thấy hắn đối xử với mình như một người anh đối với em, Liên chán nản… Sau đó cũng lên xe hoa về nhà chồng.

Bây giờ đến lượt Nhung. Hắn nghỉ bụng, chuyến này mà không thành nữa thì không chừng lần sau, sẽ đến phiên hai cô út song sinh, và biết đâu chú sẽ cho hắn luôn cả hai cô cũng nên… Với ai, chứ với chú Phương thì chuyện gì cũng có thể xảy ra cả.
Hắn bật cười vì ý nghĩ trên…
Năm 89, hắn trở về thăm quê hương lần đầu tiên, gặp lại chú. Chú vẫn vui tính và thương hắn như xưa, vừa mới đi tù về. Chuyện vào tù ra khám của những người giàu có dưới chế độ này xảy ra như chuyện cơm bữa, giàu có cũng là một cái tội.
Vợ con chú đã định cư ở nước ngoài, chú kẹt lại với một căn bệnh ngặt nghèo, vừa mới được giải phẫu, cắt 1/3 dạ dày.
Ngày hắn trở về Đức, chú đã lặn lội đạp xe vào tận Chợ Lớn cố tìm mua cho bằng được mấy cái bánh bao nướng, nổi tiếng là ngon, để kịp đãi hắn trước giờ lên máy bay về nước.
Nay chú không còn nữa, hắn viết mấy dòng này để tưởng nhớ đến chú, người đã thương hắn hơn con ruột của mình…

Chiều chủ nhật, hắn chở mẹ xuống nhà cô chú Phương “xem mắt” Nhung.
Cả nhà đông đủ, chỉ trừ chú Phương đang ở Đà Nẵng để lo một số giấy tờ về nhà đất gì đó.
Mẹ hắn và cô Phương đang nói chuyện sau nhà, có lẽ đang nói chuyện về Nhung và hắn, cô bé Nhung mắc cỡ trốn biệt trên lầu.
Hắn đang nói chuyện với Cường, góp ý cho anh chàng đang học Y khoa Huế và muốn tìm cách chuyển vào Y khoa Sài Gòn.
Liên đứng cạnh, vừa ẳm con, vừa góp chuyện…
-Ơ kìa !! Hắn ngạc nhiên và sững sốt,
Con nhỏ này… tui quen…
Cô bé đã từng làm hắn “ngất ngư con tàu đi” dạo nào ở Đà Lạt, bây giờ sao lại ở đây. Cô nàng đang đi qua trước mặt hắn, ở phía bên kia đường.
Liên mau mắn :
-Thôi mình lại đó chơi đi, nhà mấy cô này ở đầu đường, toàn dân Đà Nẵng không à, mấy cô này Liên quen…
Lần này nàng không mặc áo dài vàng mà lại mặc quần tây với chiếc áo thun màu xanh. Thôi kệ, lần trước về yêu hoa cúc, hôm nay lại đến phiên mến lá sân trường, cũng chẳng sao…
Thế là Liên sốt sắng đưa hai mẹ con qua nhà cô gái mặc áo vàng mà quên hẳn hai mẹ con hắn hôm nay đến nhà, là để xem mắt Nhung, em gái của mình.
Chỉ có mẹ hắn, Liên và cô gái áo vàng nói chuyện với nhau, hắn chỉ im lặng vì không biết nói gì và cũng khó mà chen vào câu chuyện của ba người.
Cô gái vui vẻ tiếp khách và không một lần liếc mắt nhìn hắn cho dù chỉ là thoáng qua một vài giây.
Cuộc nói chuyện tuy ngắn ngủi, nhưng qua đó hắn cũng biết một số thông tin về nàng.
Cô nàng tên Thu, chưa có gia đình và cũng chưa có người yêu, tuổi Rồng. Hắn vốn ngán các cô tuổi Rồng, hy vọng cô này… hiền.
Cô ở tận ngoài Đà Nẵng, vào thăm các em đang ăn học ở Sài Gòn và sáng sớm mai sẽ trở ra lại Đà Nẵng.

Hai tháng sau hắn có 10 ngày phép ra thăm nhà và luôn tiện đích thân đến làm quen cô gái mặc áo vàng.
Qua sự tìm hiểu của mẹ hắn, gia đình của cô gái cũng không xa lạ gì.
Ông bà ngoại của nàng cũng là người thân quen lâu năm với gia đình và đã có lần bà ngoại nói với mẹ hắn như sau :
-Mụ về thổi thằng Tứ cho mau lớn, ta có đủ cháu ngoại, cháu nội, sau ni muốn đứa mô ta cho đứa nấy.
Ông dượng và bà cô của nàng cũng biết rõ gia đình hắn từ hồi xửa hồi xưa. Lúc hai ông bà đám cưới đã mượn chiếc xe Citroen mui trần của ba mợ hắn để đi rước dâu.
Còn cô ruột và mẹ của nàng lại là học trò cũ của mợ hắn.

Thiên thời địa lợi đều có đủ, chỉ còn thiếu nhân hòa có nghĩa là hắn chỉ cần chiếm trái tim của nàng là có thể hân hoan rước nàng về dinh. Điều này hắn tự tin sẽ làm được một cách dễ dàng, vì theo kinh nghiệm trước đây với các bạn học phái nữ, từ đó đến nay, vẫn chưa có cô nào tỏ ý ghét hắn cả.
Thế là hắn ngang nhiên đến nhà nàng một cách tự tin để bắt chuyện và làm quen.
Mà cũng không có ai đi tán gái như hắn bao giờ, đúng giờ và đúng giấc. Sáng 8 giờ có mặt tại nhà nàng, 10 giờ từ giả ra về, đúng giờ không sớm hơn và cũng không trễ một giây phút nào cả, một ngày đến, một ngày nghỉ, mặc dầu trong thâm tâm, hắn muốn đến mỗi ngày, thậm chí cả sáng lẫn chiều.
Hắn sợ nàng chê là “mặt dày”.
Hắn chọn thời điểm này là thích hợp nhất vì lúc đó cửa hàng đang vắng khách, nàng ngồi một mình trông coi, mẹ nàng lại chưa có mặt nên dễ dàng nói chuyện một cách tự nhiên.
Sau khi từ giã nàng, hắn ghé tạt qua thăm cô Ba của nàng ở cách đó mấy căn. Nói là qua thăm chứ thật sự qua để lấy thêm thông tin về nàng. Hắn vẫn chủ trương biết địch biết ta trăm trận trăm thắng.
-Con chào cô, cô khỏe không ?
-À !! Tứ, con vô đây, con mới ở bên kia qua đó phải không ?
-Dạ !!
-Tình hình hai đứa tới đâu rồi ?? Cô nóng nảy hỏi tiếp.
-Dạ, thì cũng vậy cô ơi, không có gì thay đổi cả.
-Tối hôm qua, cô có nói chuyện với Thu…
-Thu… nói sao cô ?
-Thu nói… ừ thì cũng được… Có điều Thu chê con…
-Chê con chuyện chi vậy cô ?
-Thu chê con… hơi mập.
-Trời đất !! Con chỉ có hơi đầy đặn hơn người bình thường… chút xíu thôi mà, làm gì mà phải chê mập… Người đâu mà khó chịu quá chừng !!!
Cô Ba cười lớn :
-Ừ, tối hôm qua cô cũng nói như rứa, có da có thịt mới thấy đẹp trai, chứ da bọc xương như mấy thằng xì ke thấy xấu òm !!

Trở vào Sài Gòn, ngoài những công việc bình thường, sáng ở bệnh viện, chiều có một vài giờ lý thuyết, hoặc họp tổ để tố khổ giữa những người đã từng là bạn học của nhau, hắn còn có thêm một nhiệm vụ cao cả khác là viết thư cho nàng.
Mỗi tuần một lá thư, tuần nào có hứng thì hai, đủ thứ chuyện, trên trời và cả dưới đất. Hắn tự thấy phục mình vì không biết trong thời gian ấy, lấy ý tưởng đâu ra mà viết ngần ấy lá thư, mà thư nào thư nấy dài dằn dặt đầy những ý tưởng “cao siêu”, khi thì dịu ngọt đậm chất cải lương và sến rện, mà nếu không nhờ những lá thư thì không cách nào hắn diễn tả bằng lời nói được, vì hắn ngượng, có khi thì giở trò rủ rê và dụ dỗ… Nàng vẫn không nhượng bộ. Cuối cùng hắn giở chiêu cuối cùng là hăm dọa, đại loại như :
-Em hãy nhìn quanh em, xem thử có ai đẹp trai bằng anh không ? Những tên đẹp trai hơn anh, hoặc đã theo chân Mỹ Ngụy ra nước ngoài, hoặc rủ nhau vào rừng, học tập cải tạo và chưa biết ngày nào được ra.
-Bộ em muốn ở giá ? Hắn bồi tiếp :
-Hay là em muốn lấy… cán bộ ?
Đến đây nàng hãi quá, dong cờ trắng và đầu hàng vô điều kiện.
Cuộc tình của hai đứa đến với nhau như thế đấy, bằng hai biến cố xảy ra trong cuộc đời của hắn, một lần vì bị Đ/tá CHT cúp phép và lần thứ hai bị kẻ trộm viếng nhà.
Sau đó một đám cưới vội vàng và gọn nhẹ khi cha của nàng vừa ra khỏi tù sau chiến dịch cải tạo tư sản thương nghiệp ở Đà Nẵng.
Lúc đó cả nhà hắn cũng dọn về Huế sau khi đã hiến sở nhà đất ở Đà Nẵng cho cách mạng.
Kể ra cũng sướng, khi đi làm cách mạng trở về được nhân dân, kẻ có vàng hiến vàng, người có nhà đất thì hiến nhà, hiến đất. Tất cả đều “hồ hởi phấn khởi”.
Cũng đáng công sau bao nhiêu năm cực khổ theo cách mạng…

Hai vợ chồng hắn sắp có con đầu lòng…
Thế là gia đình nhỏ bé của hắn sắp phải xa quê hương xứ sở này rồi.
Hắn không muốn con cái, từ khi mới lọt lòng, đã bị xếp vào loại con của Ngụy quân và có gốc tư sản. Với hai cái mũ chụp này, con cái của hắn sẽ không làm được gì hết, kể cả việc đi học…
Muốn làm gì và xin gì người ta cũng đòi hỏi lý lịch ba đời…
Hắn cũng không muốn con cái phải sống trong một xã hội mà người ta lấy chủ nghĩa duy vật làm kim chỉ nam cho cuộc sống, nơi mà tư cách và nhân phẩm con người không có giá trị bằng vài ba cân khoai mì hay một vài lạng thịt mỡ.
Vì nhu cầu sinh tồn mà con người phải sống giả dối, lọc lừa, với những mưu mô và thủ đoạn.
Yêu không dám nói yêu, ghét không dám nói ghét, sống thường trực trong nỗi lo âu và sợ hãi.

Sau 33 năm xa quê, gia đình hắn sống hạnh phúc với hai con, một trai một gái. Các con đã trưởng thành, công ăn việc làm ổn định, có một cuộc sống ngay thẳng và lương thiện.
Các con đi làm ăn xa, đã ở riêng, bây giờ ở nhà chỉ còn hai người già.
Hai vợ chồng hắn vẫn thương yêu nhau như ngày đầu, mặc dầu cô vợ áo vàng năm xưa cũng thường hay ca cẩm về cái tính ương bướng của hắn :
-Ông càng già càng chướng, tui chịu hết nỗi rồi. Hồi xưa nghe nói ông có nhiều bạn gái, phải chi hồi đó có cô nào chịu rước ông giùm tui, cho đời tui bây giờ bớt khổ .
Hắn cười hề hề trêu vợ :
-Cũng tại bà chứ, ngày tui đi coi mắt vợ, bà xẹt ngang… dớt tui, đem về làm chồng, bây giờ bà còn than van cái nỗi chi ? Đúng là cái số của tui như “trái thị rớt bị bà già”.
Rồi cũng có lúc cô nàng kéo hắn về với thực tại :
-Thôi ông đừng có ngồi đó mà mơ mộng viễn vông nữa, số trời đã định, ông làm sao thoát được lưới trời !!
Hắn không dám cãi lại, chỉ lầm bầm trong miệng :
-Lưới trời, tui thoát được, lưới áo vàng thì không…
Sau ba mươi mấy năm chung sống, hắn nhìn lên, thấy mình không bằng ai, và nhìn xuống thấy còn hơn nhiều người khác.
Hắn cảm thấy bằng lòng và hạnh phúc với những gì mình đang có…

Thời gian mới gần đây, hắn liên lạc được với cô bạn thuở xa xưa tên Dương. Cô đã có 3 con, 2 gái một trai và đã lên chức bà ngoại. Cậu trai út của cô cũng có tên Vũ và đã ra trường Kỹ sư. Một sự trùng hợp khá là đặc biệt… vì con trai của vợ chồng hắn cũng là Kỹ sư và tên…Vũ.
Cô sắp về hưu nên có thì giờ rảnh, thường hay viết và… lách, cô sáng tác cả một tập truyện ngắn, trong đó có truyện “Duyên con gái” viết về hắn. Và cô lấy bút hiệu Áo Vàng…
Hình như đến tận bây giờ hắn vẫn còn có Duyên với Áo Vàng, mặc dù bây giờ, hắn đã qua cái tuổi về yêu hoa cúc và mến lá sân trường từ lâu rồi.
Dương và hắn có những điểm giống nhau và khác nhau, nhưng dù giống nhau hay khác nhau, hai người vẫn là bạn. _ Tình bạn của hai người tựa như cái đường sắt xe lửa, cứ mãi chạy song song đến tận cuối chân trời…

Hắn nhìn sang bên cạnh, vợ hắn thở đều, đang chìm vào giấc ngủ sâu.
Hắn kéo mền đắp lại cho nàng, vừa chép miệng :
-Tội nghiệp !! Ngày mai phải dậy đi làm, còn những ba ngày nữa mới đến cuối tuần.
Ngoài trời mưa đã dứt hạt, ánh trăng bắt đầu le lói và e ấp sau màn mây mỏng, hy vọng ngày mai sẽ có nắng đẹp…

T3

Viết để tặng vợ, cô gái mặc áo vàng năm xưa ở Đà Lạt và cô bạn Nha sĩ kiêm nhà văn có bút hiệu Áo Vàng.
14/02/2012

.

Catégories
Prose

Tưởng niệm 100 năm Hàn Mạc Tử (1912 – 2012)

Tranh : Túy Lan

.

.

-  Đức tin trong nguồn thơ Hàn Mạc Tử – Đặng Tiến

-  Nhà thơ Thanh Thảo phỏng vấn nhà phê bình Đặng Tiến về tập thơ Gái Quê được tái bản (Thanhnien online)

-  Gái Quê và những đính chính tư liệu (Phụ lục 1 & 2) (Bauxite Việt Nam)

-  Hàn Mặc Tử và bài thơ thôn VỸ (blog Nguyễn Trọng Tạo)

-  Hành huơng 100 năm ngày sinh Hàn Mạc Tử

Góp Nhặt Đó Đây

-  Nên gọi “Hàn Mạc Tử” hay “Hàn Mặc Tử”- Nguyễn Đình Niên

-  Sự thật về mối tình Hàn Mạc Tử – Hoàng Thị Kim Cúc và bài thơ “Ở đây thôn Vỹ Dạ” – Phanxipăng

-  Câu chuyện đi tìm bản in đầu tiên tập thơ “Gái Quê” – Lại Nguyên Ân

-  Thơ Tin Cậy Mến của Hàn Mạc Tử – Lê Đình Thông

.

Trăng và Thi Nhân – Thanh Trí

.

-  Thơ Hàn Mạc Tử

-  Đây Thôn Vỹ Dạ (Nhạc : Khúc Dương – Tiếng hát : Camille Huyền)

-  Trường Ca Hàn Mặc Tử (Phạm Duy)

.

Catégories
Prose

Đức tin trong nguồn thơ Hàn Mạc Tử XXX

Dang Tien (BP60) . Hàn Mạc Tử tên thật là Nguyễn Trọng Trí, sinh ngày 22 tháng 9 năm 1912, tại thị xã Đồng Hới, chính xác là làng Lệ Mỹ, tổng Võ Xá, huyện Phong Lộc, tỉnh Quảng Bình, trong một gia đình công chức, công giáo thuần thành. Rửa tội tại giáo xứ Tam Tòa, Đồng Hới, ngày 25-9-1912, tên thánh là Phan xi Cô (François). Thêm sức tại nhà thờ Quy Nhơn, 1933, dưới tên Phan xi cô Xa- viê. Học tại Quảng Ngãi, Qui Nhơn. Ra Huế, học trường thầy dòng Pellerin (Bình Linh) xong năm thứ nhất bậc trung học, 1930, thì thôi học. Về ở Quy Nhơn. Làm sở đạc điền được ít lâu, sau bỏ sở. Vô Sài Gòn, 1934, làm báo một thời gian, trợ bút cho báo Sài Gòn, rồi trở về Qui Nhơn 1936, khi sức khỏe sa sút. Bắt đầu làm thơ Đường từ năm mười lăm tuổi, ký nhiều bút hiệu : Minh Duệ Thị, Phong Trần, Lệ Thanh. Từ 1935 chuyên làm thơ mới, ký Hàn Mặc Tử, cuối cùng là Hàn Mạc Tử. Đã đăng thơ trên các báo Phụ nữ Tân văn, Sài Gòn, Trong khuê phòng, Đông Dương tuần báo, Tân thời, Người mới.
Chứng bịnh phong cùi hiểm nghèo buộc ông phải sống ẩn tránh, trong đau đớn cả tinh thần, thân xác lẫn vật chất, nhưng đã đem đến cho Hàn Mạc Tử nhiều thi tứ đặc biệt, thanh thoát, như một vùng trú ẩn cần thiết cho cõi linh hồn đau khổ triền miên. Thi phẩm đã công bố : Gái Quê (Tự xuất bản, in tại nhà in Tân Dân, Hà Nội,1936, 34 bài thơ, tựa của Phạm Văn Ký) ; Thơ Hàn Mạc Tử (Tuyển tập, nxb Đông Phương, Hà Nội, 1942, tranh vẽ của Phạm Tú. Nhà Tân Việt, Sài Gòn, tái bản, 1959).
Tại trại phong Quy Hòa, ngoại thành Quy Nhơn, Hàn Mạc Tử trút linh hồn ngày 11 tháng 11 năm 1940, hưởng dương 28 tuổi, được mai táng ngay hôm đó tại nghĩa địa trại Quy Hòa.
Số phận ngắn ngủi của ông là một thiệt thòi lớn cho nền văn học đất nước, vì ông được coi như một nguồn thơ tinh khôi và kỳ lạ bậc nhất trong thi ca hiện đại.
Đặc biệt là nguồn thơ cảm hứng từ đức tin Thiên Chúa, và phản ánh đức tin này qua tác phẩm, là đề tài cho chuyên luận dưới đây. * Cuối 1942, trong Nhà văn hiện đại, Vũ Ngọc Phan đã nhận xét : “Từ ngày Hàn Mạc Tử từ trần đến nay, mới trong khoảng hai năm trời mà người ta đã nói rất nhiều, viết rất nhiều về Hàn Mạc Tử”. [1] Và đến nay, bao nhiêu giấy mực đã được dành cho nhà thơ bạc mệnh. Có lẽ ở miền Nam, Hàn Mạc Tử là thi sĩ được nhắc nhở nhiều nhất. Nhưng e rằng dù vậy sự hiểu biết của chúng ta về thi tài đó vẫn không tiến bộ được bao nhiêu. Có lẽ lại lùi lại nữa là khác. Năm 1941, Hoài Thanh muốn nói đến Hàn Mạc Tử đã hỏi mượn thơ do Trần Thanh Địch giữ[2]. Cùng năm đó, khi viết cuốn Hàn Mạc Tử, có lẽ Trần Thanh Mại cũng dùng nguồn tài liệu đó, tức là của em mình. Ngày nay, 1970, ngoài tập Thơ Hàn Mạc Tử mỏng manh của nhà xuất bản Tân Việt tái bản 1959, chúng ta không còn thi liệu nào khác. Chính Quách Tấn, bạn thân, ân nhân, người đã được nhà thơ ký thác trọn vẹn tác phẩm, cũng tỏ vẻ không có nhiều tài liệu hơn chúng ta. Trong bài nói về nhà thơ quá cố đăng trên Văn, Quách Tiên sinh, khi trích thơ Hàn Mạc Tử đã làm một việc mà ai cũng làm được, như Vũ Ngọc Phan đã làm, nghĩa là trích từ tập thơ in 1942 kia, hay trích lại của Trần Thanh Mại và Hoài Thanh – trừ vài bài tứ tuyệt không mấy quan trọng. Nhưng ông ấy may mắn có được đọc tập Gái Quê, xuất bản vào sinh thời tác giả. Lý do rất giản dị : chiến tranh đã làm thất lạc hết tài liệu, mặc dù Quách Tấn giữ gìn cẩn thận, sao nhiều bản gửi Bộ Giáo dục Nam triều thời đó và tất cả ban bè của Tử[3].
Như vậy trong mọi hành trình vào tác phẩm của Hàn Mạc Tử, chúng ta sẽ giẫm chân tại chỗ, đua nhau kể cuộc đời ái tình và sự nghiệp của nhà thơ – dĩ nhiên là éo le gay cấn, nhưng không giúp hiểu thêm trước tác, sức sáng tạo thi ca, được bao nhiêu. Dù cho một vài bài quan trọng, như của Quách Tấn trên số báo Văn thượng dẫn, ngoài việc đưa ra một số sự kiện chung quanh việc sáng tạo của Hàn Mạc Tử còn bổ chính nhiều điều do Trần Thanh Mại đề xuất trong cuốn biên khảo về Hàn Mạc Tử [4] xưa nay vốn là tài liệu tham khảo căn bản cho mọi người.
Về cuộc tranh tụng giữa hai họ Quách và Trần năm 1942, thì chúng tôi không có ý kiến gì. Nhưng xin tán đồng Quách Tấn về hai điểm : thứ nhất là Trần Thanh Mại ẩu, thứ hai là ông không hiểu thơ, và cứ ưa phê bình thơ, và Vũ Ngọc Phan cũng đồng ý như vậy [5]. Tuy nhiên, nếu không có cái ẩu, cái trích dẫn bừa bãi của họ Trần, thì các nhà nghiên cứu về sau – kể cả Quách Tấn – lấy đâu ra thơ Hàn Mạc Tử để tham khảo, sau khi người giữ bản quyền để thất lạc hết di thảo ?
Tưởng khi nói chuyện ba mươi năm về trước, Quách Tiên sinh không nên chua cay mới công bình[6]. Chúng tôi trình bày những khó khăn về tài liệu đó là có ý rào đón những thiếu sót trong bài này, khi đề cập đến một đề tài hệ trọng và bao quát : đức tin Thiên Chúa giáo trong thơ Hàn Mạc Tử. Chúng tôi không khám phá ra điều gì mới mẻ, mà chỉ khai triển một nhận xét của các ông Vũ Ngọc Phan, Hoài Thanh, cách đây mấy mươi năm. Chúng tôi chỉ đào sâu thêm tác phẩm để có một cái nhìn nhất quán trên toàn thể thi phẩm. Thay vì trích dẫn những câu có hình thức tôn giáo như Maria, linh hồn tôi ớn lạnh, thì chúng tôi mong chứng minh là cấu trúc toàn bộ của thơ Hàn Mạc Tử , phần nào, đã vang vọng lời truyền giảng của Phúc Âm. Bài này chia làm nhiều phần : – Nhận định tổng quát
Gái Quê : thế giới đợi chờ
Đau Thương : con người sáng tạo và mơ ước
Xuân như ý : Thế giới khải huyền. “Tôi đã sống mãnh liệt và đầy đủ. Sống bằng tim, bằng phổi, bằng máu, bằng lệ, bằng hồn. ..Thôi mời cô cứ vào… ánh sáng lạ trong thơ tôi..”[7]
Đối với Hàn Mạc Tử thơ và đời sống là một, bất khả phân, nhất là khi lâm trọng bệnh. Nàng đánh tôi đau quá, tôi bật ra tiếng khóc, tiếng gào, tiếng rú (tr. 8). Tác phẩm của Hàn mang tên là Thơ Điên, sau đổi là Đau Thương vì nó là Đau Thương, là “kinh nghiệm trước hết của một con người, một thực tại con người ngay trong thân phận”[8].
Vũ Ngọc Phan nhận xét : “Có lẽ ông là người Việt Nam Nam ca ngợi Thánh nữ Đồng trinh Maria và Chúa Jésus bằng thơ trước nhất. Ông ca tụng đạo Gia-tô rất chân thành. Lần này cũng là lần đầu, thi ca Việt Nam thấy được một nguồn hứng mới”[9]. Hoài Thanh nới rộng đến tương quan giữa tôn giáo và dân tộc, “Thơ Hàn Mạc Tử ra đời, điều ấy chứng tỏ đạo Thiên Chúa ở xứ này tạo ra cái không khí có thể kết tinh lại thành thơ. Tôi tin rằng chỉ những tình cảm có thể diễn ra thơ mới thiệt là những tình cảm đã thấm tận đáy hồn đoàn thể”. Nhận xét này của một kẻ “thiếu lòng tin, du khách bỡ ngỡ”[10] là Hoài Thanh mang ý nghĩa đặc biệt : trong Gia-tô giáo Việt Nam, niềm tin Thiên Chúa đã nhập vào tín ngưỡng thuần túy Việt Nam. Và thơ Hàn Mạc Tử minh chứng điều đó : một đức tin Việt Nam ở Thiên Chúa, diễn đạt bằng lời ăn tiếng nói Việt Nam, mà ngôn ngữ thi ca là thành phần tinh túy. Đó là điều chúng tôi muốn trình bày qua một bài báo ngắn.
Duy chỉ khai triển thêm một ý của Hàn trong lời tựa tập Đau Thương, viết năm 1938 : Người đang say sưa đi trong Mơ uớc, trong Huyền diệu, trong Sáng láng và vượt hẳn ra người Hư linh…(tr. 7) trong đó người đọc gặp lại những chủ đề cương lĩnh của Kinh Thánh : một vũ trụ ngây thơ đổ vỡ vì nguyên tội ; những khổ hạnh của thân xác như một kinh nghiệm của Mơ Ước và Huyền Diệu, để vươn tới một thế giới khác, sáng láng ngoài Hư linh, thế giới của Phục Sinh, của Khải Huyền. Ba giai đoạn đó là cơ cấu của nguồn thơ Hàn Mạc Tử.
Vũ trụ Gái Quê đã sụp đổ trong Đau Thương mà nhà thơ đã chịu đựng để đợi sống lại một mùa Xuân Như ý. Ai nói vườn trăng là nói vườn mơ. Ai nói bến mộng là bến tình. Người thơ là khách lạ đi giữa nguồn trong trẻo. Trên đầu người là cao cả, vô biên và vô lượng ; chung quanh người là mơn mớn với yêu đương…( Tựa Đau Thương) Những dòng mở thi phẩm không khỏi làm ta nhớ đến thiên Sáng Thế Ký mở đầu Cựu Ước. Nhưng vườn, đây không nằm ở hướng đông như vườn Eden (“Gen II.8”), mà chỉ là một vườn mơ, bến mộng, niềm nhớ nhung đằng đẵng về một hạnh phúc nguyên thủy. Hạnh phúc của nguồn trong trẻo mà loài người phải từ giã ra đi, và bị cấm cản đường về (“Gen III, 24”). Nguồn ở đây là dòng sông trước khi chia làm bốn nhánh, tưới vườn Eden bằng tình yêu cao cả, vô biên và vô lượng, chưa bị giới hạn vì nguyên tội, khi con người chưa khó nhọc, chưa đổ mồ hôi, chưa biết chông gai và mùi cát bụi (“Gen III 17, 18 và 19”). Bài tựa 1938 của Hàn Mạc Tử đã mơ ước khôi phục lại mùa xuân trinh nguyên của ngày sáng thế, đầy thinh sắc, tinh hoa và châu báu, như nhũ hương và bích ngọc bên bờ nhánh sông thứ nhất (“Gen II, 12”). Thơ Hàn, cũng như lòng lê thứ, nói như Pascal, là niềm hoài vọng bất lực về một hạnh phúc sơ khai, một tráng lệ đã phôi pha Còn đâu tráng lệ những thời xanh
Mùi vị thơm tho một ái tình
Đố kiếm cho ra trong lớp bụi
Ít nhiều hơi hướm của kiên trinh
Sau khi phạm trái cấm, loài người không mang nguyên tội ra khỏi địa đàng rồi dựng lại một bình an khác. Với tội kiêu căng, loài người phải chịu bao nhiêu hưng phế : từ Hồng Thủy cho đến cơn thịnh nộ của Thiên Chúa hủy tháp Babel, thành Sodome và Gomorrhe, bao nhiêu lớp bụi phế hưng đã lấp mất cánh đồng xanh lẫn “ít nhiều hơi hám của kiên trinhHồn xưa tự ấy không về nữa
Ở cõi hư vô dấu đã chìm
Dân Do Thái, lưu linh còn hy vọng có ngày tìm về đất Hứa, còn con người đã vĩnh viễn đánh mất tất cả tráng lệ của thời xanh. Nhưng thơ Hàn Mạc Tử vẫn là mơ ước, một đón đợi, như Cựu Ước là sự chờ đón đấng Cứu Thế. Trong Gái Quê và những bài đầu Đau Thương, thơ là niềm mong đợi Trước sân anh thơ thẩn
Đăm đăm trông nhạn về
Ngày xuân mong đợi đó còn thuần lương, là một mùa xuân ngoại đạo – một thứ printemps paien – hồn nhiên và vô tư lự, như tất cả những hội hè của mùa xuân Việt Nam. Trong làn nắng ửng khói mơ tan
Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng
Sột soạt gió trêu tà áo biếc
Trên giàn thiên lý – Bóng xuân sang
Sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời
Bao cô thôn nữ hát trên đồi
— Ngày mai trong đám xuân xanh ấy
Có kẻ theo chồng bỏ cuộc chơi.
Cái hồn hậu đó, như Hoài Thanh đã nói “chỉ là một mùa xuân đầu năm”[11], tôi nói thêm là một thế giới đợi chờ để nở lên một mùa xuân sáng thế “hồi trời đất mới dựng lên” hay mùa xuân tái tạo “ra đời một lần với chúa Jesus”. Khác biệt đó không có gì mâu thuẫn và Hoài Thanh cũng không cần ngại người đồng đạo với nhà thơ sẽ khó dễ vì một hai dấu tích Phật giáo còn sót lại. Quách Tấn còn cực đoan hơn : “Tôi nhận thấy vang bóng của đạo Phật có phần đậm hơn Thiên Chúa”[12]. Sự phân lượng e rằng khó cân đo chính xác nhưng vết tích Phật giáo và ngay cả Lão giáo, Khổng giáo trong thơ Hàn Mạc Tử đậm đà, từ trong rung cảm đến ngôn ngữ. Điều đó không có gì là nghịch lý cả ; hạt mầm Thiên Chúa giáo, khi nảy nở trên đất Việt Nam thì tự nhiên thích ứng với khí hậu, phong thổ. Gần đây, tình cờ tôi có đọc tác phẩm của linh mục người Pháp, Jacques Dournes nói về việc truyền giáo tại bộ lạc Jorai, Tây nguyên Trung Bộ. Sách có nhiều điểm tế nhị và sâu sắc, nhằm bảo vệ truyền thống một thị tộc : “Cơ quan hành chánh phát cho dân Jorai hạt giống bông vải gốc Phi châu, năng suất cao hơn giống địa phương ; dân Jorai đã gieo hái, nhưng chỉ một lần thôi rồi không tiếp tục. Lý do là họ phải nhuộm chỉ trước khi dệt, và thuốc nhuộm làm bằng lá cây của họ không ăn vào chỉ bông nhập cảng. Họ lại trở lại với giống bông cũ. Từ đó tôi không quên bài học bông vải”[13]. Và khi viết bài này, tôi lại càng không dám quên bài học quý hóa của một vị linh mục ngoại quốc, về sau đã có thêm nhiều đóng góp về hiểu biết các bộ tộc anh em ở Tây Nguyên.
Theo Quách Tấn, gia đình Hàn Mạc Tử (dường như) theo đạo Thiên Chúa từ đời nội tổ Tử, tên Phạm Bồi, vì liên can quốc sự nên dời quê, được một linh mục Pháp đỡ đầu, vào lập nghiệp tại Thừa Thiên. Thân sinh Hàn Mạc Tử là Nguyễn Văn Toản đổi sang họ Nguyễn ; học Đại Chủng viện Huế, đến chức Thầy Tư rồi bỏ ra đời[14] làm công chức ngạch thương chính. Ông sinh hạ được sáu người con và đặt tên là Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín. Hiếu. Dài dòng như vậy là để trình bày không khí và giáo dục gia đình nhà thơ, thấm nhuần nho giáo, một mảnh đất mới đang hấp thụ đức tin Ki Tô giáo, đang dần dần thấm nhuần ơn trìu mến. Tôi là trăng cổ độ
Lượng trời rộng bao la
Phải, lòng chàng là bến đợi. Trong những kích thước mông mênh ; có thể là một trời thu man mác ; có thể là hàng cau nắng mới lên ; thường thường là một đêm trăng sao đắm đuối. Vâng, như đón từ xa. Như đợi từ xa : Cho ta nhận thấy không đền đáp
Ơn trọng thiêng liêng xuống bởi trời
. Nhưng chàng đã đền đáp. Bằng tất cả. Đau thương : tiếng Thơ và cuộc Sống. Chàng đã đem cuộc đời để trả lời ơn phước cả đang ngân vang trong màu nhiệm phủ ban đêm, một tiếng gọi của thượng tầng không khí. Từ lúc nhận điềm có tiên tri thì vũ trụ trong Gái Quê và nhũng bài Đau Thương đầu tiên nhuốm ý thức nguyên tội, người lương sẽ gọi là mặc cảm tội lỗi. Những bài đó gợi cảm giác có tội trước khi phạm lỗi. Vũ Ngọc Phan và Hoài Thanh đồng ý rằng tập Gái Quê thiên về dục tính ; có lẽ ta cần minh định thêm về khuynh hướng ấy. Một người chỉ xin hoa đền ngựlòng ni cô thì dục tính… đi tới đâu ? Tôi xin giải thích thêm về điểm này : Mới lớn lên trăng đã thẹn thò
Thơm như tình ái của ni cô
Tại sao trăng lại phải thẹn thò ? Thẹn thò là cảm giác của Adam và Eva khi lấy lá che thân lánh mặt Đức Chúa Trời (“Gen III, 7-8”) sau khi ăn trái cấm. Họ thẹn thò vì phạm lỗi. Còn Trăng việc gì mà phải thẹn thò nhất là khi mới lớn lên ? Sự thẹn thò của thân thể, con người đã thừa kế của Adam, cho nên ta mới có thể nói : không khí rạo rực trong Gái Quê là di sản của nguyên tội. Những câu thơ mà Vũ Ngọc Phan cho là “gợi tình, thiên về xác thịt”[15] là một dục vọng, nhưng đồng thời cũng là một cấm đoán, một lãnh cảm : Da thịt trời ơi trắng rợn mình Hàn Mạc Tử nhắc đến tình ái của ni cô, hay da thịt của nàng dâu để gợi lên cái vô tội của con người trong một thế giới đã hư hỏng vì nguyên tội, mà mình phải gánh chịu. Ngay trong giáo lý, dục tính, tự nó, không phải là tội lỗi : “Đó là một căn bệnh, chứ không phải tội lỗi. Tuy nhiên căn bệnh đó là hình phạt của tội lỗi”[16] tác giả muốn nói đó là nguyên tội ; và “dục tính, bản năng sinh lý như ta thường thấy là tiếng gào phản kháng của một hình hài bị thương tổn”[17] Nhà thơ dự phóng những rạo rực của bản năng ra ngoài vũ trụ ; cái nhìn của chàng vuốt ve, mơn trớn với yêu thương, tất cả tạo vât. Từ ánh trăng, đến cành liễu, mặt hồ, cơn gió, cho đến bài thơ của người yêu, tất cả đều nồng nàn da thịt, tất cả đều tương giao trong nguồn ái ân ràng rịt trăm giây quyến luyến : Trăng nằm sóng soải trên cành liễu
Đợi gió đông về để lả lơi
Cây lá ngây tình không muốn động
Lòng em hồi hộp, chị Hằng ơi
Dục tính trong đoạn thơ nằm trước hết trong cách chọn chữ gợi tình, khi đi đôi với nhau như trăng và gió, trong thành ngữ phong nguyệt hay gió giăng. Hoặc trăng và hoa, hoặc liễu và hoa ; trong những hình ảnh nguyệt hoa hay ghẹo nguyệt trêu hoa, hay liễu ngõ hoa tường. Hay hình ảnh “nguyệt hoa hoa nguyệt trùng trùng” trong thơ xưa.
Đoạn thơ lại khêu gợi bằng những hình ảnh táo bạo đến suồng sã như nằm sóng soải, lả lơi, ngây tình ; cuối cùng cơn mê đắm còn biểu lộ trong những ý tưởng lộ liễu. Tất cả những chữ, hình ảnh, ẩn dụ, những ý tưởng đó giao thoa thành một không khí lả lơi, vừa cợt nhả vừa tinh tế, tuy có suồng sã nhưng không phải là không khéo léo. Thơ gợi dục tính của Hàn Mạc Tử, cùng với thơ Bích Khê, bạn thân của Hàn, dường như là môn đệ, có lẽ táo bạo bậc nhất trong thi ca mới ; cái tài tình của Hàn, khác với Bích Khê, là táo bạo đến đâu vẫn còn nét ý nhị. Một cử chỉ, câu nói sống sượng khi tự nó, nó nói hết những điều muốn nói, và đôi khi còn nói luôn những điều không nói. Ở Hàn Mạc Tử – ít ra ở những bài còn lưu truyền đến ngày nay – dù hở hang đến đâu, vẫn còn úp mở của một ngôn ngữ ý nhị và tình tứ. Chúng ta không còn những bài thơ như Hát Giã Gạo trong tập Gái Quê đã làm cho Vũ Ngọc Phan “lợm giọng”, nhưng dù muốn hay không, ta phải công nhận nhà thơ có một quan niệm luyến ái thánh thiện, lành mạnh đến bệnh hoạn : Cho nên tôi tưởng tối tân hôn
Chưa tới, còn xa để được buồn
Để sống trong niềm thương nhớ đã
Để còn mường tượng đến giai nhân
Đọc Hàn Mạc Tử ta có cảm giác một sự giằng co giữa con người phóng túng và con người khắc khổ ? Cái giọng tình của Hàn, dù có cợt nhã, cũng chỉ tả một thứ tình hàm thụ, lối ái ân không tưởng, trong môi giới giữa nhân sinh và tạo vật. Nói gọn hơn, nó không thể thỏa mãn, trong một thế giới không tự mãn. Vì vẫn còn là một thế giới đợi chờ Điềm Lạ, trong lòng vũ trụ còn say chìm nơi bất giác, nhưng đã được các tiên tri chuẩn bị để đóng mừng Ngôi Hai. Hàn Mạc Tử mô tả thế giới đợi chờ, trước hết bằng di sản hồn nhiên của một nền văn hóa ngoại đạo nhưng niềm nở và hướng thượng, thứ đến bằng đức tin nuôi dưỡng trong Phúc Âm ; hai phụ lưu sung mãn đó đã đổ vào hồn thơ Hàn Mạc Tử, như một dòng sông vừa nhận được cơn nước nguồn thác lũ bỗng phải vượt qua một địa thế hiểm nghèo : chứng phong nan y đã biến hồn thơ hồn hậu thành một cuồng lưu khốc liệt, nếu không phải là một vùng nước xoáy. Đau thương. Tên một tập thơ, và tên một định mệnh. Hay tiếng gầm rú của một cuồng lưu lâm vào tuyệt địa. Chúng ta nói qua sự đau thương trong cuộc đời. Rồi trong thơ. Hàn Mạc Tử nhuốm bệnh từ năm 1936. Hăm bốn tuổi, tuổi anh hoa đang phát tiết “Khi biết mình đang mang bệnh hiểm nghèo, Tử hết sức đau đớn, đau đớn đến phát điên. Thường ngày trong cơn thác loạn nổi dậy, khi nhiều khi ít. Nhưng ngày rồi ngày, nỗi đau khổ hết phát hiện ra ngoài một cách bồng bột, thì lại ăn sâu vào tâm hồn ngấm ngầm nung nấu nạn nhân, nung nấu đến tột độ”[18]. Hàn Mạc Tử nhiều lần mô tả những đau đớn của thân xác : Thịt da tôi sượng sần và tê điếng.
Tôi đau vì rùng rợn đến vô biên
Bên cạnh những hành hạ của bệnh trạng, Hàn Mạc Tử còn phải đương đầu với hai hậu quả khác của hoàn cảnh : nghèo túng và tuyệt vọng vì tình. “Hiện Trí về tạm ở nhà. Cái nguyên nhân là không tiền uống thuốc. Bữa nay Trí xuống nhà bà thầy thuốc rồi. Có một mái nắng rọi nhiều quá. Cả chiều nếu ở trong nhà thì phải đội mũ”[19] . Chúng ta còn có nhiều tài liệu khác về nỗi cùng khốn của nhà thơ qua những bức thư gửi Trần Thanh Địch, do Trần thanh Mại trích dẫn.
Về cuộc tình duyên đau khổ với Mộng Cầm, chúng ta cũng có nhiều tài liệu. Đại khái hai bên yêu nhau khăng khít, thề bồi dữ dội lắm, hẹn hò nhau từ Phan Thiết ra đến Qui Nhơn ; khi Hàn Mặc Tử chịu tang cho anh, thì Mộng Cầm tự xin phép được “thành tâm cư tang cho ông anh một năm cũng như anh, nghe anh” vì “người cầm bút biên mấy hàng trên đây là người em dâu chắc chắn, nhất định của anh rồi. Vậy ông anh nên phù hộ cho chúng em thương nhau cho đến bạc đầu”[20]. Khi biết chàng lâm trọng bệnh, thì nàng “thề” bồi lại một lần nữa đậm đà hơn”, để rồi sáu tháng sau nàng đi lấy chồng. Trần Thanh Mại cho rằng nàng không đáng trách, “duy có cái nàng lấy chồng hơi gấp đấy thôi”[21]. Quách Tấn cũng cho biết là thái độ của Mộng Cầm đã gây ra cho nhà thơ “một nỗi buồn thương vô hạn”, “một phản ứng mãnh liệt”, những tiếng kêu rên thống thiết”[22]. Nghệ hỡi Nghệ muôn năm sầu thảm,
Nhớ thương còn một nắm xương thôi,
Thân tàn ma dại đi rồi,
Rầu rầu nước mắt, bời bời ruột gan.

(Mộng Cầm tên thật là Huỳnh Thị Nghệ) Trời hỡi nhờ ai cho khỏi đói ?
Gió trăng có sẵn làm sao ăn ?
Làm sao giết được người trong mộng
Để trả thù duyên kiếp phụ phàng ?

Trần Thanh Mại, tr 95 Tiếng kêu trầm thống đó chất chứa cả kiếp cùng khốn vật chất lẫn tinh thần, cho đến ngày bị bệnh tàn phá đến thảm thê, theo như một người bạn, cùng bị hủi, kể lại “hai mắt nằm lọt vào sâu hai lỗ hũm sâu hóm, đến không còn mở ra được. Thân hình chỉ còn da bọc lấy xương, chân tay thì co rúm lại, mà đầu tóc thì bù xù rối trết lại từng về, trong ấy nhô nhúc những chí là chí” (thư của ông Nguyễn Văn Xê, để lại Qui Hòa ngày 25-6-1941)[23]. Chúng ta tưởng không có gì thê thảm hơn tình trạng băng hoại đó. Ấy thế mà Hàn Mạc Tử can đảm chịu đựng nữa là đằng khác : “tuy hơi cực khổ thế mà tôi vẫn an vui, ngày nào cũng có cười cả. Nếu không cười với ai, thì cười một mình, xem ra thú vị không biết mấy”[24]. Một tự tình chua xót. Niềm an vui kia, Trần Thanh Mại, người biết cuộc đời thật của nhà thơ cho là “yêu quái” là “kinh dị”. Còn Vũ Ngọc Phan chỉ biết Hàn Mặc Tử qua một số thi phẩm cũng không khỏi ngạc nhiên : “một người mang bệnh rất đau đớn mà có một tâm thần thư thái, bình tĩnh như thế, thật cũng lạ”[25]. An vui của Hàn Mặc Tử không phải là cay đắng, gượng gạo, có khi nổ tung ra trong những câu thơ hơn hớn : Hôm nay vui quá anh Phùng ơi
Buồn xa không đến lệ không rơi
Buồn không thắt ruột, tình không lại
Cười nói làm sao cho hả hơi ?

(Trần Thanh Mại trích, tr 122) Biết đâu là Đau thương giam cầm không kỹ, thoát lọt ra trong một biến trạng dị kỳ
Họ Trần cho là “quái gở, thật đáng rùng mình”. Sở dĩ ông không hiểu can đảm của bệnh nhân, có thể là ông không hiểu được sức mạnh của đức tin trong con người Hàn Mạc Tử. Khi đề cập đến vấn đề này, Hoài Thanh, cũng là người ngoại đạo, nhưng tinh tường hơn Trần Thanh Mại, thừa nhận ngay “Thiếu lòng tin tôi chỉ là du khách bỡ ngỡ”[26] còn họ Trần thì cứ phán đoán ầm ĩ cả lên. Nhưng nhờ có ông mà chúng ta có được một dữ kiện về đời sống tín ngưỡng của nhà thơ : “Trong khi sưu tầm tài liệu của nhà thi sĩ, tôi tìm thấy trong một nhà trọ của chàng, một mẩu báo dán trên khung cửa sổ tre, đã nhàu nát vàng vọt, và nhìn lối in chữ và hình ảnh tôi biết ngay là báo Vì Chúa. Đoạn bài đăng trên mẩu báo ấy nói về nguồn an ủi trong bệnh tật cho rằng sự đau ốm là do đức Chúa Trời ban xuống cho ta, để thử lòng ta, nên chẳng những là ta phải chịu một cách nhẫn nhịn mà còn nên vui vẻ bằng lòng nữa”[27].
Căn cứ trên đoạn này tôi cho rằng tác giả không mấy thông thạo giáo lý Gia- tô giáo. Nếu bài báo ấy có thật – Vì họ Trần mãi cho đến ngày nay ở Hà Nội vẫn có cái cố tật là ưa bịa đặt tài liệu.[28] – thì chúng ta tiếc rằng họ Trần không trích dẫn chính xác, cho biết rõ xuất xứ, tìm xem báo Vì Chúa số mấy, ngày mấy, hoặc ít nhất cũng cho ta nguyên văn. Vì theo kiến thức thô thiển của tôi, thì không có kinh sách nào dạy rằng “đau ốm là do Chúa Trời ban” và chúng ta phải “vui vẻ bằng lòng”.
Nhưng vấn đề ở đây không phải cãi nhau về giáo lý, vừa ngoài phạm vi bài viết và thẩm quyền của tôi. Điều quan trọng là, Trần Thanh Mại đã nói, đức tin “đã ảnh hưởng tốt đẹp đối với chàng”. Quách Tấn xác nhận điều này : “Tử tìm được nguồn an ủi lớn nhất trong nguồn Đạo. Khi đã sống cùng Đạo thì tâm hồn Tử hết bị ray rứt dày vò”[29].
Chính nhà thơ đã kể lại một ngày bệnh tật của mình : “ Lại đọc kinh, lại ngâm thơ, lại làm thơ, lại nhớ, lại nằm. Buổi tối ăn xong, cũng vừa đi bách bộ vừa ngâm thơ một cách sung sướng nhất đời. Cả ngày chỉ ngâm thơ và đọc kinh là nhiều hơn cả. Ngày nào cũng như ngày ấy, không thấy buồn lắm, và ngày nào cũng mong mỏi một cái gì”[30].
Đối với Hàn Mặc Tử, Thơ là Đạo và Đạo là Thơ, Thơ đã đạt tới Đạo và Đạo để đi tới Thơ, hoặc như Hoài Thanh đã nhận xét chí lí “Thơ chẳng những ca tụng Thượng Đế mà cũng để nối liền người ta với Thượng Đế”[31].( Sau này có chuyên gia thần học đã lưu ý : danh xưng Thượng Đế không phù hợp với giáo lý Ki Tô giáo, mà là danh xưng thường gặp trong Lão giáo, mặc dù Hàn có câu “giàu sang hơn Thượng Đế.”) Thơ đưa về Đạo, là nẻo đường đưa đến Con Đường. Thơ là giải pháp tạm thời của Đau Thương, trong khi chờ đợi Đạo và Cứu Rỗi miên viễn. Ngày nào cũng mong mỏi một cái gì. Nếu Gái Quê, như tôi đã trình bày ở đoạn trên, là thế giới đợi chờ Điềm Lạ, đợi chờ Chúa Ra đời thì Đau Thương là một tâm hồn mong mỏi Ngày Chúa trở lại (“Mt” 24-22) Hàn Mặc Tử chấp nhận bệnh tật không phải là vì “do đức Chúa ban xuống” như Trần Thanh Mại đã nói ; nhưng trước hết vì nó là hậu quả của nguyên tội và thứ đến vì nó là phương tiện thân xác mà Chúa đã dùng để cứu thế. Linh mục Charles Journet, giáo sư Đại Chủng Viện Fribourg đã trình bày vấn đề một cách mạch lạc và nhất quán trong tác phẩm về thống khổ : “Chúng ta xem khổ ải của thân xác như một mãnh lực hợp – cứu- thế vì chúng ta dự vào đau đớn của Chúa Ki tô và trong sự tham dự của chúng ta. Như vậy không nên nói đến chấp nhận Đau Thương mà chỉ nên nói đến gia nhập vào công đức cứu rỗi ; chúng ta không chấp nhận (accepter) vì nó là một định luật của thể xác ; chúng ta thu nhận (adopter) vì nó nối liền bản thân Thiên – Chúa – hiện – làm – người.”[32] Đoạn trên rọi sáng lời truyền dạy của sứ đồ Saint Paul trong thư gởi cho người La-Mã : “Những khổ hiện tại không có nghĩa lý gì so với những vinh hiển phải được thể hiện trong mỗi chúng ta. Mỗi hình hài chờ đợi là một khát vọng sự thể hiện con cái đức Chúa Trời, với Mơ Ước được giải thoát ra khỏi hư nát, và đạt tới tự do vinh hiển của con cái đức Chúa Trời. Vì chúng ta biết rằng hình hài, đến nay vẫn rên xiết trong công trình thai nghén” (“Rom”, VIII, 18-32). Đau Thương hôm nay là thai nghén cho ngày mai, thai nghén một mùa Xuân như ý, Người Ki Tô giáo quan niệm đau thương như một huyền nhiệm, nhưng hữu hạn, trước Chúa Trời là một huyền nhiệm, vô hạn.
Tôi thành thật nghĩ rằng Hàn Mạc Tử đã bình an được trong Đau Thương – một hoàn cảnh thể xác, vật chất và tinh thần làm chúng ta rùng mình – là nhờ huyền nhiệm đó, nhờ sức mạnh của xác tín. Có lẽ xác tín đó, cộng với bệnh trạng, đã tạo một linh thị cho nhà thơ. Trần Thanh Mại và Quách Tấn đồng ý “là mỗi lần chàng chết đi sống lại (trong mấy năm bệnh chàng bị chết đi sống lại bốn đến bốn năm lần) và chàng đều cảm thấy có bà Thánh Nữ Đồng Trinh Maria đến cứu”[33]. Theo Quách Tấn thì bài thơ trứ danh “Maria ! Linh hồn tôi ớn lạnh” được viết khi Tử sống lại, trong cảnh đó[34]. Mộ thi sĩ Hàn Mạc Tử ở Ghềnh Ráng – Quy Nhơn (hình Tuổi Trẻ) Dù cho rằng mộng mị chỉ là một biến thể của bệnh trạng, thì dưới ánh sáng của khoa phân tâm, ta có thể đi đến cội rễ của mộng mị, dù xa lạ đến đâu. Cội rễ ở đây, là xác tín trong tâm hồn Hàn Mạc Tử, người đã cam chịu hư nát để chuẩn bị cho một vinh hiển. Thật ra, niềm tin vào cuộc sinh tồn mai hậu, của linh hồn, ở một thế giới khác, không phải đặc biệt của Thiên Chúa giáo. Trong hầu hết các tín ngưỡng tự nhiên của dân gian, nước nào cũng vậy, đều có mầm hy vọng của một đời sống khác. Chỉ nói đến vòng đai tôn giáo chung quanh địa lý Thiên Chúa giáo, chúng ta có thể kể đến tư tưởng Assyrien, Babylonien, và nhất là Ai – Cập, đều có niềm tin đó, như muốn : ra không gian và vượt hẳn thượng tầng. Đức tin của Hàn Mạc Tử không phải ở chỗ mong hồn tới tấp ở ngoài kia vũ trụ, mà ở chỗ tìm gặp Một Người ở cõi quá thinh gian ; Hàn Mạc Tử tìm tới chốn chiêm bao ngoài sự thực, không phải vì chiêm bao đẹp hơn sự thực và “ứ đầy khoái lạc”. Mà chỉ : Vì có đấng hằng Sống, hằng Ngự Trị
Nhạc thiêng liêng dồn trổi khắp hư linh
Bài “Ngoài vũ trụ”, mà tôi đã trích các câu trên, tiếp theo hai bài “Hồn lìa khỏi xác” và “Siêu thoát” soi sáng ý nghĩa của những bài Đau Thương và báo hiệu cho Quần Tiên Hội, Cẩm Châu Duyên và Xuân Như ý.
Vậy ta có thể đề cập đến một kiến trúc trong thi phẩm của Hàn Mặc Tử không ? Chúng ta biết rằng sự sắp xếp thứ lớp trong tuyển tập Thơ Hàn Mạc Tử, 1942 hay 1959, không phải do thi sĩ, mà những người phụ trách tái bản thơ ông, tức là Quách Tấn hay Hoàng Trọng Miên gì đó. Do đó, không ai dám dựa trên trật tự cụ thể của tập thơ để nói đến kiến trúc, như Marcel Ruff đã nói về “kiến trúc bí mật, architecture secrète” khi trình bày nhất quán thi phẩm Hoa tội lỗi, Les Fleurs du Mal của Baudelaire. Tôi vẫn theo lối sắp xếp trong ấn bản Tân Việt, 1959, vì nói chung nó phản ánh thứ tự biên niên trong quá trình sáng tác ; tôi nghĩ không ai bác bỏ thuyết cho rằng Gái Quê sáng tác trước Đau Thương, Xuân Như Ý ; và Cẩm Châu Duyên, Duyên Kỳ Ngộ sáng tác sau cùng, thời kỳ nhà thơ biết Thương Thương. Nhưng dù sao chúng tôi cũng dè dặt mong các nhà biên khảo sau này có nhiều sử liệu chính xác hơn tôi, sẽ đào sâu cơ cấu mạch lạc của vũ trụ Hàn Mạc Tử, trên bình diện này hay bình diện khác, hoặc trong nguồn sáng tạo toàn diện thì càng nghiêm túc. Khi đề cập đến kinh nghiệm đau thương của Hàn Mặc Tử tôi tiếc chưa được đọc bài của Võ Long Tê, một chuyên gia về văn chương Thiên Chúa giáo, về vấn đề này ; nghe nói bài sắp sửa đăng báo, tôi đợi hoài chưa thấy. Tôi cần nói thêm : không riêng gì Phúc Âm, những tín ngưỡng khác của người Á Đông cũng tìm một giải đáp cho đau thương ; Phật giáo thì cho đó là những đợt sóng triền miên của Mê hà hay Khổ hải ; Lão giáo thì cho đó là định luật của Vô Tri. Cái can trường của nhà thơ là do đức tin vững chắc của Đấng Cứu Thế, và đức tin đó đã được bồi dưỡng trong cái Dũng của triết lý Đông phương lẫn cái kiên trì trong lòng dân tộc. Nói đến xác tín của Hàn Mạc Tử không phải là tôi không biết (hay tệ hơn nữa, tôi không nhớ) đến những giá trị bằng hữu kia. Khi suy nghĩ về khổ lụy của nhân sinh, tôi đọc lại kinh thánh Coran của Hồi giáo thì có cảm giác, hời hợt thôi, như là họ không chấp nhận khổ đau như người Ki-Tô giáo hay người Á Đông, vì họ cho là do sự hành hạ của Chúa Trời. Vậy trong Hàn Mạc Tử có sự giao hòa giữa đức tin tôn giáo sung mãn và một tâm hồn dân tộc niềm nở, tạo ra nguồn thơ hết sức sâu xa. Trong tinh thần Phúc Âm, có thể Hàn Mạc Tử đã sống trọn vẹn Đau Thương của hiện thế, trước hết vì đó là phương tiện Chúa dùng để Cứu Thế, thứ đến để chuẩn bị cho vinh hiển mai sau, như lời giảng trên núi, sửa soạn cho Ngày sống lại với Đấng Hằng Sống, hằng Ngự Trị. Nhưng trên bình diện sáng tạo, quan niệm Đau Thương đó đã thể hiện ra sao ? Tôi tiếc là không được đọc bài báo của Lê Tuyên về những chủ đề trong thơ Hàn Mạc Tử, đăng trên tạp chí Đại học Sư phạm cách đây bảy tám năm gì đó. Nay tôi đề cập vài hình tượng quen thuộc trong thơ Hàn Mạc Tử như Trăng, Máu, và Hồn. Trăng ! Trăng ! Trăng ! Là Trăng, Trăng, Trăng ! Đó là điệp khúc độc điệu của một ngư phủ, theo lời kể của Quách Tấn. Đó cũng là khúc nhạc lòng của nhà thơ. Trăng là một thứ ánh sáng vừa nội tâm, vừa của ngoại giới ; ở đây chúng tôi chỉ đề cập tới tương quan giữa những hình ảnh thi ca và đức tin. Ảnh hưởng của đêm trăng đối với bệnh phong đã được ông Trần Thanh Mại triển khai đầy đủ. Còn nét quyến rũ muôn đời của ánh trăng đối với thi nhân thì viết bao nhiêu pho sách cũng còn điều chưa nói. Nhưng không thể nói thơ Hàn Mạc Tư mà không đề cập tới trăng, vì theo Trần Thanh Mại thì hai phần ba của tập Đau Thương nói về trăng, nửa phần còn lại nói về hồn[36]. Trăng, trước hết là ánh sáng tràn ngập cả vũ trụ Hàn Mạc Tử Gió ùa ánh sáng vô trong bãi
Trăng ngậm đầy sông chảy láng lai
Trăng là thứ ánh sáng êm dịu, mầu nhiệm phủ ban đêm, tương phản với ánh sáng chói chang bỏng rát của mặt trời nhiệt đới. Trăng tạo thi vị cho bóng tối tại những vùng nông nghiệp có sinh hoạt về đêm, và như Xuân Diệu kể, thì có “trăng của tình duyên, trăng của xa xôi, trăng của ảo huyền” và của “những đền đài mỏng thoáng”. Văn học của chúng ta từ xưa đến nay, vẫn le lói những ánh trăng bất tận. Tôi không dài dòng về địa hạt rộng rinh không bến này, chỉ muốn đề cập đến khía cạnh tượng trưng của ánh trăng trong giáo lý. Trăng trước hết là ánh sáng, một chủ đề rọi suốt mặc khải Kinh Thánh, từ ngày thứ nhất của sáng thế, khi đức Chúa Trời phân định ánh sáng và bóng tối, (“Gen” I, 3-4), cho đến chương cuối cùng của “Khải Huyền”, khi con người, trong trời đất mới, hưởng được một ánh sáng miên viễn (“Ap.” XXII,5). Như vậy thế giới di chuyển từ một vùng ánh sáng tương đối, ánh sáng vật chất đối với bóng tối ban đêm, đến một ánh sáng tuyệt đối, ánh sáng vĩnh cửu ngay trong chân thân Thiên Chúa, vì “Ngài là Sự Sống mà Sự Sống là Ánh Sáng” (“Jean” I, 4). Và quá trình từ tương đối nọ đến tuyệt đối kia là sự phấn đấu không ngừng giữa ánh sáng và bóng tối, tựa hồ như một cuộc phấn đấu giữa nguồn sống và cõi chết. Ở Hàn Mạc Tử, ánh trăng là một thứ Ánh Sáng đang tương tranh cùng Bóng Tối, trong một tư thế bi thảm, khác với mặt trời là chiến thắng – dù là tạm thời – của Ánh Sáng Ánh trăng mỏng quá không che nổi
Những vẻ xanh xao của mặt hồ
Những nét buồn buồn tơ liễu rủ
Những lời năn nỉ của hư vô
Mâu thuẫn tâm cảm của nhà thơ là vừa yêu bóng đêm – vũ trụ Hàn Mạc Tử là một vũ trụ về đêm – vừa yêu ánh sáng, và vươn tới một nguồn chói lọi Ta ước ao đội mũ triền thiên
Và tắm gội trong nguồn ánh sáng
Sự thật mâu thuẫn đó nằm trong những hình ảnh đa nghĩa của Kinh Thánh, vì bóng tối cũng là một sáng tạo của đức Chúa Trời. (“Gen” I, 1-2) Từ điển Giáo lý Kinh Thánh khai triển điểm tế nhị này như sau : “Bóng tối tượng trưng cho một kinh nghiệm kép : hoặc nó xác nhận không có ánh sáng, hoặc bao hàm sự hiện hữu của ánh sáng. Con người muốn có ánh sáng tràn đầy nhưng tìm đến bóng tối ; Chúa là ánh sáng, là lửa bỏng, mà cũng là bóng mát ; Kinh Thánh lý theo sự đa nghĩa đó”[37].
Chúng tôi muốn đề nghị một ý nghĩa mới của ánh trăng. Ở Hàn Mac Tử trăng là sự tương tranh đồng thời tương ứng giữa ánh sáng và bóng tối, vừa tương khắc vừa tương sinh. Trăng là Bóng Tối hết là Bóng Tối và Ánh Sáng chưa đủ là Ánh Sáng. Trong biện chứng Sáng – Tối đó, tâm hồn Hàn Mạc Tử vẫn được xác định bằng Ánh Sáng, tức là “con người của Ánh Sáng” khác với con của bóng tối hay “con của Hiện Thế” (“Luc”, XVI, 8). Vậy nhà thơ là Ánh Trăng, vì chàng là con của Ánh Sáng Không gian đầy đặc toàn trăng cả
Tôi cũng trăng mà nàng cũng trăng
Vì, bên dưới bình diện siêu hình, về mặt đạo đức, vẫn phải có sự phân biệt giữa bóng tối và ánh sáng (“II Co XI”,14) Và tình ta sáng láng như trăng thanh Thỉnh thoảng người đọc gặp một vài hình ảnh của Kinh Thánh để tả trăng, như Người trăng ăn vận toàn trăng cả
Gò má riêng thôi lại đỏ hường
(Trần Thanh Mại trích) Vì liên tưởng ngay đến một câu của “ Thi Thiên” (104, 2) Chúa bao phủ mình bằng “ánh sáng như cái áo”. Nhưng có lẽ chỉ tình cờ. Trăng trong Hàn Mặc Tử không những là một thứ ánh sáng ảo huyền, thường rạng rỡ. Nó có hình có trạng, như một vật cụ thể khả xúc. Có khi một món hàng – ai mua trăng ta bán trăng cho – có khi là châu báu, là hơi nước chảy, hay là một người đàn bà, mà tôi mường tượng phải đẹp lắm trong nhan sắc làm bằng Ánh Sáng và Im Lặng Tôi lần cho Trăng một tràng chuỗi
Trăng mới là Trăng của Rạng Ngời

(Trần Thanh Mại trích) Và nói chung, trăng là hồn, là máu cuả bóng đêm : tôi có nói đến ba chủ đề, kỳ thật chỉ là ba tiết diện của một thế giới : Gió rít tầng cao trăng ngã ngửa
Vỡ tan thành vũng đọng vàng khô
Ta nằm trong vũng trăng đêm ấy
Sáng dậy điên cuồng mửa máu ra

(Trần Thanh Mại trích) Hình ảnh máu hoặc nhỏ từng giọt, hoặc ọc từng búng, hoặc đọng thành vũng, hoặc chảy thành sông, có lẽ là dấu hiệu của bệnh lý. Ý nghĩa của máu là cuộc sống, vì máu mang đến sinh lực đến cho mỗi tế bào, mà đồng thời cũng là cõi chết, khi đã khô, đã đọng thành vũng máu đào trong ác lặn. Về hình ảnh máu vẫn thường gặp trong thơ Baudelaire, Jean-Piere Richard viết : “Sự xuất huyết thiêng liêng ở chỗ hội tụ cuộc sống hiển nhiên và cái chết tàn nhẫn”[38]. Máu là cuộc sống đang chết, hay là cái chết tiềm ẩn trong cuộc sống. Máu là hồn của thể xác mà cũng là xác của linh hồn.
Nói khác đi, máu là thơ : Ta muốn hồn trào ra đầu ngọn bút
Mỗi lời thơ đều dính não cân ta
Bao nét chữ quay cuồng trong máu vọt
Cho mê man chết điếng cả làn da
Cứ để ta ngất ngư trong vũng huyết
Trải niềm đau trên mảnh giấy mong manh
Đừng nắm lại nguồn thơ ta đang siết
Cả lòng ai trong mớ chữ rung rinh

(Trần Thanh Mại trích) Máu, cũng như thế, vừa là hành hạ, vừa là giải thoát. Chúng ta vẫn thường gặp hình ảnh máu trong Kinh Thánh : máu là nguyên lý sự sống, nhưng khác với linh hồn ở chỗ máu là thành phần hư nát của cơ thể, còn linh hồn vẫn tồn tại đợi ngày Phục Sinh[39]. Từ máu Cứu Thế trên Thánh Giá đến máu chiên con, hình ảnh của đau đớn, của hư nát lại là hình ảnh của Hy Vọng ; máu của chúng sinh tuy không vào được nước đức Chúa Trời (I, XV, 50) vẫn là một môi giới, một phương tiện, một ánh sáng, một thẩm mĩ : Và ai gánh máu đi trên tuyết
Mảnh áo da cừu ngắm nở nang
Trong bài “Biển hồn ta” bắt đầu bằng câu Máu tim ta tuôn ra làm biển cả…, người đọc có cảm giác như máu và hồn là một, hay máu là hồn của xác thịt còn thể phách là hồn của toàn cơ thể, vì chính nhà thơ cũng phân biệt hồn ngoài và hồn trong : Hồn hãy thoái ly ra ngoài tâm tưởng
Là hồn đừng nghĩ ngợi đến hồn trong
Cứ để mặc hồn ngoài bay lưởng vưởng
Ngao du cùng khắp cõi trí mênh mông
…Rồi hồn ngắm tử thi hồn tan rã
Bốc thành âm khí loãng nguyệt cầu xa
Đã là hồn rồi mà còn có tử thi nữa sao ? Lại còn ngắm được tử thi của mình nữa sao ? ở đây, ngoài sự phân biệt “hồn” và xác cố hữu trong tiềm thức người Việt Nam, ta còn phải ghi nhận thêm ảnh hưởng phong thổ vùng từ Qui Nhơn đến Phan Thiết nơi Hàn Mặc Tử sống, vùng đất của người Chàm. Nhà thơ thế nào cũng nghe chuyện ma Hời đêm đêm lìa khỏi xác đi chơi hay ăn đêm, và đã nhớ đến những chuyện đó trong cơn mê sảng bệnh hoạn. Nhưng trong Thánh Kinh, nhất là Cựu Ước, chúng ta còn bắt gặp dấu tích sự phân biệt đó, bắt nguồn tư tưởng Do Thái giáo, Thân thể, tiếng hebreu (Do Thái) gọi là basar, dịch ra la-tinh là caro, thành tiếng Pháp là chair, xác thịt. Xác thịt, nếu không có sinh khí, chỉ là một “tử thi”. Hơi thở của Jahweh đã hà sinh khí vào xác thịt, nhưng chỉ tạo nên một quân bình mong manh : “thần khí của ta sẽ không lưu lại mãi trong loài người, vì loài người chỉ là thân xác” (“Gen VI”, 3) ; vậy trong tư tưởng Do Thái giáo, chẳng những hồn và xác khác biệt nhau, mà hồn là thần khí mà Chúa Trời ký thác vào thân xác con người đó thôi, chứ không hẳn của con người. Do đó, khi chết, Chúa Jésus đã nói “Thưa Cha, trong tay Cha con trả lại linh hồn”, (“Luc XXIII”, 46) và Huy Cận đã nhắc lại trong câu “Lạy Thượng Đế tôi cúi đầu trả lại, Linh hồn tôi…” Linh hồn đó, là cái thần khí của Jahweh nay trở về với Jahweh, chứ không phải là cái hồn lìa khỏi xác của Hàn Mạc Tử. Hồn này lại là một chuyện khác, một biểu hiện của sự sống ; hồn này có thể chết, có thể hư nát như thịt xương (“Ps”, 78, 50) lang thang xuống âm ty sống đời khổ ải, cho đến ngày Chúa trời cho lịnh hồi sinh những đống xương tản mác[40]. Trong những lời truyền dạy của Thánh Tự, Hàn Mạc Tử đã nhớ những chi tiết phù hợp với tâm hồn hay bệnh trạng mình nhất, nghĩa là sự phân biệt giữa hồn và xác, trong khi giáo lý Thiên Chúa về vấn đề này, phức tạp hơn nhiều. Vì nhà thơ, trong cơn hành hạ của bệnh lý dĩ nhiên là tìm cách giải thoát, dù chỉ bằng mê sảng Thịt da tôi sượng sần và tê điếng
Tôi đau vì rùng rợn đến vô biên
Tôi dìm hồn xuống một vũng trăng êm
Cho trăng ngập dần lên tới ngực
(tr. 53) Ở đây, ta bắt gặp hình tượng Trăng, Hồn và Máu dồn dập lại trong tương quan chặt chẽ : mà thơ khạc hồn ra khỏi miệng, hay điên cuồng mửa máu ra, hay ngậm cả miệng ta trăng là trăng, cả ba hình ảnh đều oà vỡ từ thân xác, và từ thân xác Đau Thương.
Hàn Mạc Tử đã dùng thơ để sống trọn vẹn tín lý của mình. Chàng đã thấy hồn mình trong máu vọt, và hồn mình chính là máu đang tuôn trào lênh láng ; chàng đã ghi lại những cảm giác rùng rợn đó, bằng những hình ảnh ta đã gặp trong Cựu Ước : hồn trong máu (“Lv XVII”, 10) hồn là máu (“Lv XVII”, 14), một thứ máu luôn luôn vươn đến ánh sáng, như hình ảnh đức Chúa Trời chói chan trong tấm áo dệt bằng ánh sáng trong “Thi Thiên” (104, 2) và đẫm máu chiên con trong “Khải Huyền” (XIX, 13). Máu chiên con trở thành ánh Sáng, và chiên con là ngọn đèn bất diệt của Jérusalem mới. Do đó, tôi nói Hồn, Máu và Trăng chỉ là ba màu sắc chiết quang của một ánh Sáng Duy Nhất. Người đi trong Mơ Ước. Trong mơ ước, Hàn Mặc Tử đã gọi Ánh Sáng Khải Huyền đó là Xuân Như ý. Cho mau lên ! dồn ánh nguyệt vào đây…
Đưa ra, nào là nhạc thơm, hương gấm, mộng ngọc và hoa trinh bạch, đàn ly tao, tranh tuyệt phẩm…
Vẫn là chưa bưa, chưa đã, chưa nguôi được chí muôn sao !…
Phải mời cho được Xuân Thiên ra đời
(tr. 65) Như vậy Xuân Thiên ở đây phải là một mùa xuân khác. Không còn là mùa xuân phảng phất ngày xưa trong làn nắng ửng khói mơ tan. Tuy là trời hạo nhiên trong thế giới đợi chờ của Gái Quê : màu nhiệm của đấng Vô thỉ Vô chung, nhưng là một thế giới hư nát, sẽ vỡ lở, sẽ chấm dứt. Vì công trình châu báu của Thiên Chúa, sau khi con người tự dấn thân vào tội lỗi, cũng đồng thời là sự phẫn nộ của Thiên Chúa ; mặt đất, nguyên là Quê Hương của loài người đã trở thành cõi Lưu Đày, không còn là vườn Địa Đàng long lanh nhũ hương và bích ngọc, cũng không phải là Đất Hứa óng ánh sữa thơm và mật ngọt ; trên mặt đất, lúa tốt còn mọc lẫn với cỏ hoang, trái lành ửng chín trong gai bụi, và lương thực loài người còn trộn lẫn cát bụi với mồ hôi.
Và con người không những thịt da sượng sần và tê điếng mà còn nứt nẻ như muốn tan rã ra cùng vũ trụ, làm cho mê lẫn máu và hồn ta là ta hay không phải ta. Thế giới hiện tại, tuy vẫn có thanh sắc, nhũ hương, vẫn mang sẵn mục nát trong mầm sống. Và mầm sống đó, có sung mãn đến đâu, thì nhà thơ vẫn lòng thương chưa đã mến chưa bưa, nên phải mời cho được Xuân Thiên. Chúng ta chưa quên được Người đang say sưa đi trong Mơ Ước đã gặp ở bài tựa Đau Thương. Vậy Xuân Thiên đây là niềm mơ ước ở sự tồn sinh sau cõi chết, sẽ được phục hồi trong cảnh trời mới đất mới, rạng ngời trong danh Cha cả sáng. Những thi phẩm cuối cùng của Hàn Mạc Tử như Xuân Như ý gom góp xong đầu năm 1939, Thượng Thanh Khí đầu năm 1940, gồm hai vở kịch thơ Duyên Kỳ NgộQuần Tiên Hội viết dở dang, đều nói lên niềm Mơ Ước đó. Trong bài này, tôi tạm xếp ba tác phẩm trên cùng những bài cuối tập Đau Thương vào chủ đề Xuân Như ý, cho gọn, và như một giai đoạn trong thi trình Hàn Mặc Tử. Mùa Xuân Thượng Thanh, đó ra sao ? Về chủ đề mơ ước trong Thánh Kinh, một chuyên gia về giáo lý Thiên Chúa nhận xét : “Cuộc sống vĩnh viễn được xác nhận rõ rệt bao nhiêu, thì những đường nét của nó lại mờ nhạt bấy nhiêu. Không những mờ nhạt, mà đôi khi còn thiếu sót. Sự tồn sinh không được mô tả, dù dưới những hình ảnh khải huyền”. [41] Lẫn trong mơ hồ đó, nhà thơ tha hồ mà tưởng tượng quang cảnh trời đất mới. Nếu Xuân Như Ý mang nhiều hình ảnh dựa theo tín lý Thiên Chúa giáo, thì Cẩm Châu Duyên lại gần với huyền tượng của dân gian phảng phất không khí thần tiên của Đạo giáo – một thứ Đạo giáo bình dân, không ăn thua gì đến tư duy “đạo khả đạo” của Lão Tử. Vì vậy Hoài Thanh cho rằng Hàn Mạc Tử “chốc chốc lạc vào thế giới đồng bóng”. Thật ra trong cái hoa hoè của dự tưởng, nội hàm nòng cốt của Xuân Như ý vẫn là một tín điều Thiên Chúa giáo. Trước hết đó là một mùa Xuân. Nghĩa là một thế giới mới, một khung cảnh tái tạo, như cảnh thành Jérusalem mới được thánh Jean rao truyền ở chương cuối Phúc Âm, Trời mới đất mới được dựng lên trên cảnh trộn trạo, tán loạn của ngày tận thế. Cả vũ trụ tàn theo ngày Phán xét
Là khủng khiếp cả Trời Đất tiêu diệt
(tr.60) Mùa Xuân đó ở xa, ở thật xa nếu nhìn từ thế giới hồn nhiên của Gái Quê Cửu Trùng là chốn xa xôi ấy
Chim én làm sao bay đến nơi
(tr. 37) Nhưng kinh nghiệm Đau Thương, kinh nghiệm của xác tín trong khổ não, đã chắp lên thân xác nứt nẻ của nhà thơ đôi cánh phượng hoàng. Bằng những bất hạnh, Hàn Mạc Tử đã đến gần với Chúa và gần với mùa xuân Mơ Ước hơn là cánh én bơ vơ : Phượng trì ! Phượng trì ! Phượng trì ! Phượng trì !
Thơ tôi bay suốt một đời chưa thấu
Hồn tôi bay đến bây giờ mới đậu
Trên triều thiên ngời chói vạn hào quang
(tr. 37) Trong bài “Thánh nữ Đồng Trinh Maria” này, với nguồn rung cảm mãnh liệt của đức tín, nhà thơ đã sống cả thế giới hiện tại lẫn mùa xuân dự tưởng, đã nói đến cơn lậm luỵ đã trải qua dưới thế như là một quá khứ. Và trong đức tin này, nhà thơ đã vẽ cho ta địa hình của Đất Mới, trong bài tựa tập Xuân Như Ý : Vì chưng muôn xuân là lương thực ngon ngọt, mĩ vì, ánh xuân là nguồn tơ tưởng thơm tho tinh khiết, khí xuân là mạch trường sinh bất tử, tình xuân là cung cầmnguyệt mê ly, tuổi xuân làNgọcnhưý,tênxuân là dạ lan hương. Và xuân là phong vị thái hoà của năm muôn năm, trời muôn trời, chân lưu trên thượng tầng không khí, bàng bạc cả giải Hà Sa, chen lẫn vô tận hồn tạo vật… Loài người hãy tận hưởng một hơi cho đã ngán và cao rao danh Cha cả sáng…(tr. 66) Chúng ta thử khai triển vài nét chính của Xuân Như Ý. Chúng ta đã thấy đó là mùa xuân hồi sinh,sau khi “Trời thứ nhất, đất thứ nhất tan biến”. (“Ap. XXI”,2). Như đặc biệt mùa xuân này nảy lộc từ mùa đông, nhưng sẽ không bao giờ chuyển sang mùa hạ Mai nầy thiên hạ mới tinh khôi… Và sẽ còn tinh khôi mãi mãi, vì đã đi vào cõi tứ thời xuân non nước. Trong Cẩm Châu Duyên nhà thơ gọi là Xuân vô cùng đến ngàn năm ơn phước và mô tả như một tia sáng triền miên : Liên hồ đây bốn mùa xuân cả bốn
Ngát hương đưa trong gió sớm chơi vơi
Làm nước mát và chưa bao giờ gợn
Vết phong trần đưa lạ ở xa khơi

(Trần Thanh Mại trích, tr. 147) Đoạn cuối “Khải Huyền” truyền giảng rõ ràng. Đất Mới đây, là châu thân Thiên Chúa ; mùa xuân của Hàn Mạc Tử (trường sinh bất tử năm của muôn năm, vì ở “Khải Huyền”, Chúa đã kết luận : “Ta làm mới mọi vật. Ta là Alpha và Oméga, là nguyên lý và cực chung”. (“Ap. XXI”, 5-6) Xuân Như Ý tiếp đến là một vũ trụ thơm tho và tinh khiết vì là càn khôn mới dựng lên. ở đây, nhà thơ như rợn ngợp trong trinh nguyên của Đất Mới, mà tượng trưng là con chiên con vô tật và vô tội, làm ngọn đèn trinh bạch rọi sáng cả hoàng thành. Thi sĩ vội nguyện cầu gội rửa : Tôi van lơn thầm gọi Chúa Giê Su
Ban ơn xuống cho mùa Xuân hôn phối
Xin tha thứ những câu thơ tội lỗi
Của bàn tay thi sĩ kẻ lên trăng
(tr, 74) Và để ngợi ca vinh hiển của Nguồn thơm, nhà thơ đã cao ngâm giọng long lanh, thanh thoát : Ta cho ra một dòng thơ rất mát
Mới tinh khôi và thanh sạch bằng hương
(tr. 70) Theo Hoài Thanh – người may mắn hơn chúng ta, được đọc toàn bộ thi phẩm – thì Cẩm Châu Duyên, thi phẩm cuối cùng, là “trong trẻo hơn cả” [42[. Âu cũng là chuyện lạ. Gái Quê, từ ban sơ, đã là một dòng suối rừng vẩn đục, rồi chảy qua một cuộc đời khổ ải, chuyên chở không biết bao nhiêu trần luỵ, ấy mà dần dà lại gạn lọc hết phù trầm, để đổ ra đại dương bằng một giải Cẩm Châu trong vắt. Thật là một đặc điểm trong thẩm mĩ thi ca. Đất Mới còn là một xứ rực rỡ, cao sang, vì xuân mang tên một loài Ngọc : Ánh hào quang chan chói ngắt lưu ly
Ôi ! Cao sang khôn ví, trọng ai bì
Trên nước cả có vô vàn châu báu
(tr. 67) Những hình ảnh tráng lệ như gấm, ngọc, trân châu, thất bảo, nhũ hương, mộc dược đều muốn gợi lên vinh hiển, như khi sứ đồ tả thành Jérusalem mới trong “Khải Huyền” : “Thành ấy chói sáng như một viên bửu thạch, như bích ngọc rạng ngời… Tường thì xây bằng bích ngọc, thành thì xây bằng vàng ròng, tợ như thuỷ tinh trong vắt. Mười hai cửa thì làm bằng mười hai hột châu” (“Ap. XXI”, 11, 18 và 21). Dựa theo “Khải Huyền”, tôi cho rằng những đền đài dự tưởng trong Hàn Mạc Tử là một phóng thể của đức tín Thiên Chúa, vì cảnh Bồng Lai của Á Đông, cảnh thần tiên của Đạo gia không có cái huy hoàng rực rỡ đó. Cuối cùng Xuân Như Ý là một thái hoà tuyệt đối, trong không gian và thời gian, thái hoà của năm muôn năm, trời muôn trời. ở đó, trời thì bình an như nguyệt bạch, còn người thì hoàn hảo, no nê nhờ trái cây bằng ngọc, vỏ bằng gấm. Còn nói chung : Thiên hạ thái bình và trời tuôn ơn phước
Như triều thiên vờn lượn khắp không gian
(tr. 71) Ở đây, sầu đau chìm trong quên lãng. Đất Mới không còn cảnh “chết chóc, than khóc, kêu ca hay đau đớn nữa” (“Ap. XXI”, 4) vì những lậm luỵ dưới thế đã qua. Ở đây tất cả đều là ánh sáng. Và ánh sáng là linh thị cuối cùng bao trùm trọn vẹn thi trình Xuân Như Ý, đồng thời rọi lại toàn bộ tác phẩm Hàn Mạc Tử như một Thánh thể kết tinh triền miên vươn tới ánh Sáng, vươn tới ánh hào quang chan chói ngất lưu ly. Hay trở về Ánh Sáng. ở đây, chúng ta đi sâu vào ngõ ngách cuối cùng trong đức tin Hàn Mạc Tử : Ta ước ao đầu đội mũ triều thiên
Và tắm gội ở trong nguồn ánh sáng
Tôi sẽ dừng lại ở đây, dừng lại ở hình ảnh Nguồn Ánh Sáng, vừa là một vươn tới, vừa là một trở về. Mùa Xuân Như Ý đẹp trước hết vì là Xuân thứ đến vì nó là Như Ý, nó đưa con người về với Chúa, về với Nguồn. Vậy Nguồn Ánh Sáng ở đây là Alpha và là Oméga, vừa là cội rễ vừa là cứu cánh con người. Và cấu trúc thơ Hàn Mặc Tử do đó gói ghém cả mặc khải Thánh Tự lẫn lịch trình Cứu Rỗi. Tôi có cảm giác đã làm xong một bài luận mạch lạc. Bây giờ là kết. Tham vọng bài này là đề nghị một lối nhìn nhất quán vào tác phẩm Hàn Mặc Tử trong giới hạn những bài thơ còn lưu truyền, nghĩa là trên một sự nghiệp bị thời gian cắn xén. Khai quật cấu trúc nội tại của sự nghiệp đó, chúng tôi lại còn mong ước rọi sáng những bài, những câu thơ mà các nhà phê bình xưa nay, từ Trần Thanh Mại đến Vũ Ngọc Phan, cả thi sĩ Quách Tấn đều cho là khúc mắc. Theo chúng tôi, hiểu tất cả các câu thơ, các bài thơ trong một tập thơ, chưa hẳn đã là hiểu toàn bộ tập thơ, ít nhất cũng đối với người viết phê bình. Chúng ta còn phải hiểu liên hệ nội tại trong mỗi tập thơ để nắm vững cơ cấu sáng tạo của thi sĩ – ít ra cũng trong chủ quan người đọc. Liên hệ nội tại đó, tôi đặt trên đức tín của Hàn Mạc Tử. Tôi cũng có thể đề nghị một nền tảng khác ; tôi chọn chủ đề này với một dụng ý : giải thích những nhận xét cố hữu của các nhà phê bình tiền bối vẫn cho Hàn Mạc Tử là nhà thơ Thiên Chúa giáo, mà không nói rõ, nói đầy đủ, tại sao. Các vị đó thường trích dẫn những bài thơ hay câu thơ có âm vang tôn giáo, có hình thức tín ngưỡng như Maria linh hồn tôi… rồi kết luận ; theo tôi, thì chưa đủ, vì một người không có đức tin cũng có thể kể rất nhiều tên Thánh, làm thơ ca tụng đấng Tối Linh, như ngày xưa các cụ Nguyễn Hữu Tiến hay Tản Đà nhắc đến Thượng Đế trong Quả Dưa Đỏ hay Giấc Mộng Con. Theo tôi, chúng ta chỉ có thể nói đến tín lý trong một tác phẩm khi toàn bộ tác phẩm đó tiềm ẩn đức tin trong cơ cấu. Nói khác đi, một người Thiên Chúa giáo chưa hẳn là kẻ đọc kinh vanh vách, mà là người đem trọn cuộc đời mình đáp lại lời gọi của ơn Trên, và một thi sĩ Thiên Chúa giáo không hẳn là kẻ tự xưng là thi sĩ của đạo quân Thánh giá (tr. 71) như Hàn Mạc Tử đã tự nhận, mà là kẻ đem cả sự nghiệp thi ca của mình âm vọng lại tiếng gọi của Thượng Đế. Và dĩ nhiên không phải là kẻ “dùng thơ để truyển bá tôn giáo của mình” như Quách Tấn nhận định ở trang 118 số Văn thượng dẫn. Do đó mà tôi cố gắng chứng minh toàn tập thi phẩm Hàn Mạc Tử là một tiếng vọng của Thánh Tự. Dĩ nhiên, trong tác phẩm Hàn Mạc Tử còn nhiều vết tích của một nhân bản Việt Nam. Tín ngưỡng Ki Tô giáo đã nảy mầm trên một nhân bản phiếm thần và đa giáo, thì nguồn thơ Hàn Mạc Tử không khỏi làm một lăng kính hội tụ rồi phát huy nhiều nguồn sáng khác nhau, và hỗ tương lẫn nhau, như Giáo hoàng Paul VI đã tuyên bố trên đài phát thanh Véritas chủ nhật 29-11-1970 vừa qua, nhân chuyến công du sang Á Đông : “Chúng ta đang ở một vùng đất mà những tư trào cổ kính của Đông phương và những trào lưu mới mẻ hơn Tây phương đã kết hợp lại và làm giàu cho nhau”. Và bạn đọc sẽ hoan hỉ nếu Quách Tấn thủ lời hứa “nói về đạo Từ bi trong thơ Tử” vì sẽ hiểu thêm một khía cạnh của thi phẩm, qua kiến thức uyên bác của tiên sinh về phương diện Phật lý cũng như tác phẩm Hàn Mạc Tử. Cuối cùng, viết bài này tôi cũng có hai hậu ý riêng tư. Trước là để giải một lời hứa với anh Trần Phong Giao từ hai năm nay ; một đề tài bao quát và hệ trọng như vầy đòi hỏi một suy nghĩ dài hạn, khiến anh Trần Phong Giao cứ trách tôi là “thề cá trê chui ống”. Thứ đến là hồi đầu năm nay, tôi có viết một bài điểm sách, về vở kịch Ngộ Nhận của Vũ Khắc Khoan. Bài đó đã gây nhiều hiểu lầm, nhất là trong những người thân của tôi, cho là tôi bất kính đối với tín ngưỡng ; nếu có hiểu lầm đó, dĩ nhiên lỗi về phần tôi, viết không khéo, nói không trọn, lời không thanh, ý không minh.
Vậy bài này viết vào mùa Giáng sinh, sẽ là một bổ chính cho bài trước, và cũng là lòng thành khẩn, của riêng tôi, nhân mùa Hy Vọng, là cánh hoa huệ từ một lưu vực xa xôi gửi về cho Quê hương Yêu dấu. . Val de Loire, 12-1970, bổ chính, nhân kỷ niệm 100 năm Hàn Mạc Tử, 22.9.1912 – 22.9.2012 . [1] Vũ Ngọc Phan, Nhà văn hiện đại, III, 1942 – ấn bản 1951, n.x.b Vĩnh Thịnh, Hà Nội, tr. 325. Tái bản nhiều lần.
[2] Hoài Thanh và Hoài Chân, Thi Nhân Việt Nam. 1942, Thiều Quang tái bản, Sài Gòn. 1967, tr. 204. Tái bản nhiều lần.
[3] Văn, số đặc biệt Hàn Mạc Tử, 73-74, ngày 7-1-1967, tr. 139.
[4] Trần Thanh Mại, Hàn Mạc Tử, 1941,Tân Việt tái bản, Sài Gòn, 1957.
[5] Vũ Ngọc Phan, sđd, tr. 63-83.
[6] Quách Tấn, Văn, sđd, tr. 141-148.
[7] Thơ Hàn Mạc Tử đều trích từ ấn bản Tân Việt, Sài Gòn,1959 – ấn bản này không đánh số trang, tôi dựa theo mục lục mà ghi số trang, để bạn đọc dễ kiểm chứng.
[8] Huỳnh Phan Anh, Văn số 73-74 đã dẫn
[9] Vũ Ngọc Phan, sđd, tr. 332
[10] Hoài Thanh và Hoài Chân, sđd, tr. 212
[11] Hoài Thanh và Hoài Chân, sđd, tr. 211
[12] Văn, số đặc biệt HMT, đã dẫn, tr. 120
[13] Jacques Dournes, Dieu Aime les Paiens, Aubier, 1963, tr. 149
[14] Văn, sđd, tr. 47
[15] Vũ Ngọc Phan, sđd, tr. 326
[16] J. E. KERNS. S. J, Les Chrétiens, Le Mariage et la Sexualité. Edit du Cerf, 1966, Paris, tr. 93
[17] J. E. KERNS. S. J, sđd, tr. 94
[18] Quách Tấn, Văn, sđd, tr. 81
[19] Trần Thanh Mại, sđd, tr. 73
[20] Thư Mộng Cầm, do Trần Thanh Mại trích dẫn, sđd, tr. 94
[21] Trần Thanh Mại, sđd, tr. 95
[22] Quách Tấn, Văn, sđd, tr. 88
[23] Trần Thanh Mại, sđd, tr. 193
[24] Trần Thanh Mại, sđd, tr. 121
[25] Vũ Ngọc Phan, sđd, tr. 330
[26 ]Hoài Thanh và Hoài Chân, sđd, tr. 212
[27] Trần Thanh Mại, sđd, tr. 120
[28] Nguyễn Công Hoan, tạp chí Văn Nghệ Hà Nội số 67, Tháng 12-1962 và 68 tháng 1-1963 về Tú Xương. Tôi có đề cập tới trong Báo Văn số 163 ngày 1-10-1970. Sau này tôi được biết báo Vì Chúa, xuất bản ở Huế, do nhóm Bùi Tuân, bạn thân với HMT chủ trương.
[29] Quách Tấn, Văn, sđd, tr. 120
[30] Trần Thanh Mại trích, sđd, tr. 120
[31] Hoài Thanh và Hoài Chân, sđd, tr. 211
[32] Charles Journet, , tủ sách giáo lý, Desclée de Brouwer, Bruges, tr. 271
[33] Trần Thanh Mại, sđd, tr. 130
[34] Quách Tấn, Văn, sđd, tr. 75 [35] Trần Thanh Mại, sđd, tr. 6javascript :barre_raccourci(’’,’’,document.formulaire.texte)1
[36] Vocabulaire de Théologie Biblique, Edit, du Cerf, Paris 1962, tr. 714
[37] Jean Pierre Richard, Poésie et Profondeur, Seuil, Paris 1955
[38] P. Dhorme, Revue Biblique. Số 4 tháng 10 – 1920 tr. 473 – 474. Loại bài “1’Emploi métaphorique dans la Bible”, chuyên về hình ảnh của thân xác, rất cần cho việc tìm hiểu thơ H.M.T.
[39] Vocabulaire de Théologie Biblique, sđd, tr. 31
[40] Jacques Quillet, tủ sách giáo lý, Thèmes Bibliques, Aubier, 1950, tr. 175
[41] Hoài Thanh và Hoài Chân, sđd, tr. 211
[42] Le Monde, ngày 1 tháng 12-1970, tr. 8, cột 1