Catégories
Hương Quê

Thanh Tịnh, Quê Mẹ

Đặng Tiến (BP60)

.

Thanh Tịnh là nhà văn đã có sự nghiệp dài hơn nửa thế kỷ, với số lượng trước tác dồi dào, đa dạng. Nhưng kỷ niệm bền chặt nhất mà ông để lại trong lòng người đọc là tập truyện đầu tay Quê Mẹ, 1941, với hình ảnh thơ mộng của làng Mỹ Lý (1) và buổi tựu trường trong truyện Tôi đi học. Truyện này đã nổi tiếng một thời gian dài vì được trích dẫn trong các sách giáo khoa, làm bài học thuộc lòng cho nhiều thế hệ học trò :

« Hằng năm cứ vào cuối thu, lá ngoài đường rụng nhiều và trên không có những đám mây bàng bạc, lòng tôi lại nao nức những kỷ niệm mơn man của buổi tựu trường. Tôi quên thế nào được những cảm giác trong sáng ấy nảy nở trong lòng tôi như mấy cánh hoa tươi mỉm cười giữa bầu trời quang đãng. (…)

Buổi mai hôm ấy, một buổi mai đầy sương thu và đầy gió lạnh, mẹ tôi âu yếm nắm tay tôi dẫn đi trên con đường làng dài và hẹp. Con đường này tôi đã quen đi lại lắm lần, nhưng lần này tôi tự nhiên thấy lạ. Cảnh vật chung quanh tôi đều thay đổi, vì chính lòng tôi đang có sự thay đổi lớn : hôm nay tôi đi học. » (2)

Được trích dẫn và truyền tụng, vì giá trị giáo dục : đoạn văn ca ngợi buổi đi học đầu tiên, ngày tựu trường, và đề cao việc học, văn hóa, trong giai đoạn người đi học chưa nhiều.

Về hình thức, câu văn trong sáng, cú pháp minh bạch. Từ vựng giản dị, nôm na, nhưng kỳ thật đã là phong phú vào thời điểm 1941, với những tính từ : bàng bạc, nao nức, quang đãng … tuy là thuộc vốn từ vựng cũ, nhưng cách dùng thì mới mẻ. Người xưa đã từng viết : xem trong âu yếm có chiều lả lơi, nhưng không nói : mẹ tôi âu yếm nắm tay tôi. Câu văn hay còn vì cách chấm câu, uyển chuyển, thong thả, nhịp điệu kéo dài, để đưa đến câu ngắn kết thúc : hôm nay tôi đi học.

Câu văn còn mới mẻ ở nội dung tả tâm trạng một đứa bé, nội dung này ước lệ , đặt lý tưởng người lớn vào tâm lý, ngôn ngữ trẻ con, nhưng vẫn quý hiếm, vì nó quan tâm đến trẻ con, điều mà, xưa kia, ít thấy trong văn chương. Do đó, câu văn không hiện thực nhưng có tác dụng giáo dục cao. Và nhìn chung vào sự nghiệp Thanh Tịnh thì thấy, trong bản chất, ông là một nhà giáo, trong truyện, thơ cũng như kỹ thuật “độc tấu » về sau.

Đoạn văn không hiện thực. Vì thời ấy trường học, và người đi học, còn ít. Trẻ con nhiều em sợ học, sợ đến trường ; vì đi học… là chuyện không bình thường. Huy Cận, kém Thanh Tịnh 8 tuổi, kể lại : « Tôi còn nhớ mấy ngày đầu đến nhà bác Thự tôi lười học, cứ trốn về nhà. Sau đó mẹ tôi và chú tôi phải trói tôi lại, gánh tôi bằng một cây tre như gánh lợn đi chợ, mẹ đi trước, chú đi sau, đến giao cho bác Thự » (3)

Cái làng quê Ân Phú, Hà Tĩnh của Huy Cận thì cũng na ná như làng Dương Nỗ (thật) hay Mỹ Lý (tưởng tượng), Thừa Thiên của Thanh Tịnh, việc học cũng tương tợ vậy thôi. Mà có riêng gì Huy Cận đâu ! Thế Lữ, hơn Thanh Tịnh 4 tuổi, cũng kể chuyện giông giống : « Lên tám tuổi, tôi học chữ nho. Tôi sợ phải đòn, trốn học, thầy đồ sai học sinh, có khi trói tay trói chân tôi, cho đòn càn gánh về. Tôi càng sợ. Mười tuổi mới học quốc ngữ với ông bác họ. Ông ít đánh » (4) .

Dĩ nhiên, cảnh đi học mỗi nơi mỗi khác, nhưng tâm lý trẻ em sợ việc học, ngày xưa, không chênh lệch bao nhiêu. Ai đọc Đời viết văn của tôi, nghe Nguyễn công Hoan kể chuyện đi học, thì còn nản hơn nữa.

Cũng phải nói thêm rằng cảnh « tôi đi học » ấy vẫn thường thấy trong các sách tập đọc tiếng Pháp thông dụng từ các trường Tiểu học đến Cao đẳng tiểu học, thời thiếu niên Thanh Tịnh, như một đoạn trích văn Anatole France (1844-1924) từ tập truyện Cuốn sách của bạn tôi (Le Livre de mon ami, 1885) : « Tôi sẽ kể cho các bạn nghe, hằng năm tôi nhớ lại những gì, với bầu trời thu vần vũ, những bữa cơm chiều bắt đầu phải lên đèn, và lá úa vàng trên cành cây run rẩy ; tôi sẽ kể bạn nghe, tôi thấy lại những gì khi đi ngang công viên Lục xâm bảo, những ngày đầu tháng mười, bầu trời buồn và đẹp hơn bao giờ hết ; vì đây là mùa lá rụng từng chiếc trên vai những pho tượng trắng hếu. Tôi thấy lại, trong công viên, hình ảnh chú bé con, tay thọc túi quần, lưng đeo túi sách, đi đến trường, nhảy nhót chân chim. (…) Cách đây hai mươi lăm năm, vào mùa này, mỗi buổi sáng trước tám giờ, nó đã băng qua công viên đẹp để đến lớp. Con tim có phần se sắt : hôm ấy là ngày khai trường ».

Câu chót, tôi dịch sát « c’était la rentrée », nhưng dịch thoát sẽ là : hôm nay tôi đi học, là rập khuôn theo câu văn … Thanh Tịnh.

Tác phẩm Anatole France không nổi tiếng, nhưng vẫn được đánh giá cao vì tính cách cổ điển, trong sáng và tinh tế. Ông được giải Nobel năm 1921.

Jardin du Luxembourg - 59 koJardin du Luxembourg

Những lý luận trên đây không nhằm giảm giá tác phẩm Thanh Tịnh. Đó là những hậu quả, hay hiệu quả tự nhiên trong nghề cầm bút. Thanh Tịnh thuộc thế hệ tác gia phải vừa viết văn, làm thơ vừa học cách làm thơ, viết văn. Xuân Diệu công nhận việc thừa kế nghệ thuật của mình bằng cách nhắc lại một câu tục ngữ Pháp : anh nào trồng cải thì đã bắt chước ai đó. Trong nghề văn, vấn đề không phải là không bắt chước ai, mà làm sao không ai bắt chước được mình. Hiệu quả là không ai bắt chước được Xuân Diệu hay Thanh Tịnh.

Dù sao, nguồn hứng của Thanh Tịnh hoàn toàn không đến từ văn chương nước ngoài hay kẻ khác. Nguồn cảm hứng, thậm chí khuôn mẫu nghệ thuật của Thanh Tịnh là ca dao, dân ca. Ông nhìn làng mạc Việt Nam qua câu hát dân gian, cho nên nông thôn trong truyện, từ phong cảnh đến con người đã tái hiện dưới ánh sáng lý tưởng, gạn lọc cảnh lầm than, làm nổi bật những nét thi vị. Thi ca cấu trúc không riêng gì tập truyện Quê Mẹ, mà toàn bộ tác phẩm Thanh Tịnh, thậm chí cả cuộc đời ông, nổi chìm theo lịch sử.

Nhiều truyện ngắn của ông được cấu trúc theo một câu ca dao, ví dụ truyện Quê Mẹ dựa theo câu :

Chiều chiều ra đứng ngõ sau
Ngó về quê mẹ ruột đau chín chìu

Cô Thảo nhà nghèo, và lấy chồng nghèo ở làng xa. Nhưng ngày giỗ vẫn được chồng và nhất là mẹ chồng giúp đỡ để về quê mẹ : « Sung sướng nhất là gái có chồng về nhà mẹ. Cô Thảo tuy về giỗ ông nhưng không làm gì hết. Cô vào phòng mẹ nằm ngủ cả buổi chiều, mãi đến lúc gần cúng, cô mới chịu đi ra ngoài (tr. 10).

Trong thực tế, đây là ngoại lệ. Nhưng trong thế giới Thanh Tịnh, nó là biểu tượng, là hình ảnh một xã hội không tranh chấp, giữa vợ chồng, mẹ chồng nàng dâu, nông dân địa chủ, cái cũ và cái mới. Một xã hội như thế khó bề có thực, nhưng vì tác giả nhìn đời bằng đôi mắt thi ca, nên chỉ nhìn thấy, và đề xuất những nét an bình, hạnh phúc, thi vị. Trong làng, nghèo nhất phải là người đi mót lúa, nhưng họ không cùng cực, vì chủ ruộng và thợ gặt nhân nhượng : « cách gặt của họ cũng biết điều chớ không phải vơ vét hết sạch đâu. Họ còn phải để lại ít nhiều cho người nghèo nữa » (tr.28).

Ngược lại, từ phía bên kia : « tuy người khố rách áo ôm, họ vẫn để điều nhân nghĩa lên trên tất cả. Một câu ca dao miền Trung đã tả được nỗi lòng người đi mót :
(…) Tôi đến đây mót lượng từ bi
Mót điều nhân nghĩa chớ mót chi lúa ngài »

Người mót lúa là cô Hoa. Cha mẹ nghèo và lấy phải chồng nghèo trong truyện Con so về nhà mạ, cũng dựa theo ca dao : « theo tục lệ, thì chỉ đẻ con so là về nhà mẹ thôi. Chứ cô sinh đẻ mấy lần, cô cũng qua nhờ mẹ cả » (tr.33), vì chồng nghèo quá, không lo kham việc vợ đẻ. Mà mẹ thì cũng nghèo thôi.

Nông thôn trong truyện là một xã hội nhân ái, nên con người nghèo khổ vẫn không khốn cùng. Được vậy, là do tấm lòng nhân ái của Thanh Tịnh đưa đến cách ông nhìn cuộc đời qua lăng kính của thi ca.

Một ví dụ khác, một truyện hay, qua hành văn nhuần nhuyễn là Tình trong câu hát, tr 90, được cấu trúc trên mấy câu hò mái nhì, chủ yếu là câu :
Tình về Đại Lược
Duyên ngược Kim Long
Đến đây là chỗ rẽ của lòng
Gặp nhau còn biết trên sông bến nào

Câu hò được cấu trúc trên một chữ « lòng » trong hai nghĩa, cả hai nghĩa đều thông dụng, là lòng sông và lòng người. Khi lòng sông phân rẽ, hai con đò phải cách xa, ẩn dụ tâm tình của lòng người cũng phải chia ly. Trên hạt nhân ấy, là một loạt ẩn dụ liên kết (métaphore filée) : sông, bến, tình, duyên, về, ngược,chỗ rẽ, Đại Lược, Kim Long, lại thêm phần vần vè.

Trên hạt nhân sẵn có này, Thanh Tịnh hư cấu câu chuyện nằm chồng lên, và xây dựng một tuyến nhân vật, với những tình tiết thích nghi. Nhân vật Đạt phải là người góa vợ đã lâu, mới cất tiếng hát « não nùng » :

Thuyền ai trôi trước
Cho tôi lướt tới cùng …

Rồi đò bên kia sẽ có giọng nữ vô danh cất lên, đáp lại, cho đến khi hai con thuyền chia biệt, tình về Đại Lược, duyên ngược Kim Long …

Vũ Ngọc Phan là nhà phê bình tinh tế, đã viết về Thanh Tịnh đúng và hay, không tiếc lời ca ngợi truyện Tình trong câu hát, nhưng ông không nhận ra hư cấu này, nên đã nhận định « cảnh thực mà như mộng. Anh lái đò lo sợ mộng tan » (5) … Lẽ ra phải nói ngược lại : cảnh mộng mà như thực.

Tầm nhìn thi vị và tấm lòng nhân ái của Thanh Tịnh đã hóa giải những tranh chấp cá nhân và xã hội, thậm chí cả những va chạm giữa cũ và mới. Các lớp học chữ Hán lặng lẽ và êm thắm nhường chỗ cho trường quốc ngữ ; những chuyến đò dọc nhường khách cho tuyến đường sắt. Các phương tiện lưu thông chiếm một địa vị quan trọng trong tập truyện Quê Mẹ, vừa cấu trúc truyện kể, vừa chuyên chở biểu tượng cho một xã hội đang xê dịch, chuyển mình, đặc biệt với con đường sắt.

Cuối cùng truyện Thanh Tịnh đánh dấu một buổi giao thời, và ghi lại nhiều vẻ đẹp một thời của quê hương qua những mẫu chuyện đôn hậu, tình cảm lành mạnh và lời văn trong sáng.

Với khách tha hương, xưa và nay, tập truyện đầu tay của Thanh Tịnh, cách đây đúng 70 năm, xứng đáng với tên Quê Mẹ.

.

Đặng Tiến
Orléans, 15.11.2011

* Viết cho kỷ niệm 100 năm ngày sinh Thanh Tịnh ( 12- 12-1911, Huế. Mất 17-7-1988)

.

-  1) Tên làng Mỹ Lý trong Quê Mẹ của Thanh Tịnh, là tưởng tượng và tượng trưng, trong ngữ nghĩa dễ hiểu, ” làng đẹp”.
Về ngữ âm, hai chữ Mỹ Lý dịu dàng. Phần nào đó, nó bắt nguồn từ bài thơ Milly ou la terre natale của Lamartine mà Thanh Tịnh rất thích. Thời xưa, học sinh phải học thuộc lòng, từ cấp tiểu học.
-  2) Thanh Tịnh, Quê Mẹ, nxb Đời Nay, 1941, Hà Nội. Trích theo lần tái bản, tr.85, nxb Văn Học, 1983, Hà Nội. Có thể xê xích đôi chữ so với bản 1941 mà chúng tôi không có.
-  3) Huy Cận, Đời và Thơ, tr. 610, nxb Văn Học, 1999, Hà Nội _-hà văn, 1991, Hà Nội
-  5) Vũ Ngọc Phan, Nhà văn hiện đại, 1942, quyển Tư, tập hạ, in lại, tr. 1109, nxb Khoa Học Xã Hội, 1989, Hà Nội.

.

Catégories
Hương Quê

Thầy Quyến

Nguyễn Xuân Quang (BP63)

.

Những cựu học sinh có học thầy Quyến ở trường trung học Cường Để không thể nào quên được thầy vì thầy không giống bất cứ một vị giáo sư nào. Riêng tôi, tôi sẽ nhớ thầy cho tới ngày tôi lìa đời này.

Bề ngoài thầy Quyến trông có vẻ “tồn cổ” như một ông đồ Tây học và có thể dưới con mắt của một vài người thầy có vẻ lập dị. Thầy có phong thái của một người ngang tàng bất cần đời. Nhiều lần thầy mặc áo the, đội khăn đóng đạp xe đạp đi dậy học hay dự các buổi lễ lạc trong trường. Miệng nhai trầu bỏm bẻm. Luôn luôn có cặp môi cắn chỉ hồng nước trầu. Trong lúc để lũ học trò làm bài, thầy thường ngồi nhìn qua khung cửa sổ thả hồn về một thế giới riêng tư, kỳ bí nào đó của thầy. Thỉnh thoảng thầy rùng mình, lắc đầu như chợt tỉnh dậy quay về với thực tại là lũ học trò đang ngồi trước mặt. Cặp mắt to nhiều lúc trông như cười rất tinh quái, nhất là lúc thầy nhéo. Thầy không la, không mắng, không phạt nhưng có một cái nhéo rất độc đáo. Hai ngón tay véo vào da thịt từ từ nhấc lên, vặn qua vặn lại, cái móng tay để dài kiểu thầy đồ nho bấm xuống. Bấm xuống. Bấm xuống rất từ từ cho cái đau có thì giờ nhận biết ra. Đứa nào bị thầy nhéo sẽ nhớ đời.

Thầy dậy tôi Việt văn năm đệ nhị B ban toán. Không biết có phải thầy có cảm tình với tôi hay không như có đứa bạn ghen tị cho là vậy, lúc nào bài luận văn của tôi cũng được điểm cao đứng vào hàng nhất nhì. Những bạn cùng lớp không ưa thầy bảo thầy chấm bài chỉ đọc đoạn mở đầu và đoạn kết luận rồi đo gang xem bài luận dài ngắn bao nhiêu và dựa theo đó mà cho điểm. Có một tên bạn đã thử viết bài luận và ở đoạn giữa chép vào một bài địa lý nhưng bị thầy khám phá ra, thầy xổ toẹt và cho một gậy. Thầy không cho số không, không phạt, chỉ khoanh tròn phần bài viết về địa lý bằng mực đỏ rồi phê ở ngoài lề bài luận “lạc đề”. Hóa ra thầy cũng đã có kinh nghiệm rồi. Thành thử nếu quả đúng là sự thật như nhiều tên bạn nói, thì nếu không đọc kỹ khúc giữa bài luận đi nữa, thầy cũng đọc lướt qua để đề phòng lũ học trò quỉ quyệt chơi xỏ, gài bẫy mình.

Tôi học rất khá. Tháng nào cũng đứng nhất nhì trong lớp. Sáng thứ hai chào cờ mỗi tuần tôi thường được vinh dự kéo cờ. Mỗi sáng được đi lấy sổ điểm từ phòng lao công đem lên lớp học. Cuối năm tôi được Phần Thưởng Danh Dự Toàn Trường do tổng thống Ngô Đình Diệm tặng. Năm đó tôi còn được phần thưởng hạnh kiểm. Ngoài ra tôi còn được tuyên dương trong đêm phát phần thưởng nữa. Lý do là năm đó nhà trường tổ chức trại hè ở bãi biển Đại Lãnh. Tôi không ăn được món cá nhám nấu canh cà chua của trại nấu. Sau bữa ăn, buổi tối nhiều anh em trong trại bị trúng độc thức ăn, đau bụng, ói mửa, đi tiêu chẩy. Chỉ còn tôi và mấy anh em không ăn canh cá là không bị ngộ độc. Chúng tôi cả đêm lo chăm sóc cho các bạn bè bị bệnh.

Học ở Qui Nhơn tôi ở nhà chị gái và ông anh rể. Trước vài ngày lên đường vào Nha Trang thi Tú Tài I, chị tôi sanh một cháu trai ở nhà bảo sanh của một bác sĩ. Về nhà chị tôi bị lên cơn sốt. Đến thăm bác sĩ trở lại, bác sĩ bảo không sao. Ba ngày sau chị tôi lên kinh giật, người co rút uốn cong khỏi mặt giường. Chở chị tôi vào nhà thương, bác sĩ chẩn đoán bảo chị tôi bị phong đòn gánh lúc cắt cuống nhau cho cháu bé. Vì biết quá trễ, chị tôi qua đời. Tiễn chân chị tôi ra nghĩa trang xong tôi lên tầu hỏa vào Nha Trang đi thi. Kết quả là tôi thi rớt kỳ thi đó. Thật là khó tin được, học ban Toán mà tôi giải lầm một cái phương trình bậc hai thật là đơn giản. Tôi đã viết nhầm -b/a thành -b/2a. Bài toán có 8 câu hỏi. Tám cái đáp số của tôi chỉ bằng một nửa của mọi người. Nếu vị giáo sư làm giám khảo nào đó có lòng vị tha cho tôi một nửa số điểm của người khác thì tôi cũng vẫn đậu được vì khi xem điểm tôi chỉ có thiếu một hai điểm để đậu hạng thứ mặc dù bài toán bị số không.

Thi rớt, họ hàng khuyên tôi phá ngang đi thi vào sự phạm làm thầy dậy tiểu học, thi vào cán sự y tế, cán sự thương mại… Nhưng tôi thấy mình phá ngang thì “uổng” quá vì mình học không đến nỗi tệ. Tôi quyết định học “đúp” lại một năm nữa.

Học lại thật nản. Buồn. Ê chề. Cái gì mình cũng “biết rồi khổ lắm nói mãi”, cái gì cũng là một thứ “déjà vu”. Tôi ngồi ở bàn chót thay vì ở bàn đầu như năm trước. Được một cái là giáo sư nào cũng thương nên để tôi yên thân, không bao giờ bắt lên trả bài. Nhiều buổi học dài lê thê, không biết làm gì tôi ngồi làm thơ. Nhiều người ghen ghét, bây giờ có dịp nói xấu, bôi bẩn tôi. Tôi vẫn ngang nhiên tự tại. Làm thơ giúp tôi khuây khỏa :

Bởi ông thi rớt, ông không đỗ,
Không đỗ, ông mới ngồi đây,
Ngồi đây, ông mới làm thơ ngổ.
Thơ ngổ, ông ngâm mặc chúng mày.

Và “Có Những Giờ Học

Có những giờ học,
Ông thầy nói những lời câm,
Những dòng phấn viết tím bầm.
Con chim độc tấu dương cầm.
Có những giờ học,
Vọng từ bên song,
Tiếng giai nhân khóc.
Vỡ cả chiều Ngang chiều Dọc. Có những giờ học,
Ông thầy nằm ngủ trên bàn.
Giấy mực đi về dã man.
Linh hồn gẫy thành cạnh góc. Có những giờ học,
Lớp học là công viên.
Ông thầy là tượng đồng, tượng đất.
Loài yêu thương đang rót mật.

Có những giờ học,
Bàn ghế trở về cây.
Bạn bè trơ thành đá.
Không gian mất một chiều dầy.
. . . . . .

Một hôm trong lớp đang ngồi thả hồn thơ qua cửa sổ. Giật mình thấy thầy Quyến đã đứng ngay bên cạnh. Không biết thầy có thấy mấy câu thơ tôi đang làm nháp hay không. Tôi co người thủ thế chờ cái nhéo “ác ôn” của thầy. Nhưng thầy chỉ đặt nhẹ tay lên vai tôi. Thầy nói thật nhỏ chỉ đủ cho tôi nghe thôi “Cuối tuần này, em ghé lại nhà thầy”. Nói xong thầy trở lại bàn giáo sư, ngồi nhìn ra khung cửa sổ trở về với thế giới của thầy. Như không có chuyện gì cả.

Cuối tuần đó tôi đến nhà thầy ở đường Võ Tánh. Thầy đưa tôi lên cái gác xép, thế giới riêng tư của thầy. Sách vở chiếm gần hết cái gác xép. Sách báo chữ Việt, chữ nho và ngoại quốc ngổn ngang. Thầy pha trà và cho tôi ăn bánh ngọt trong khi đó thầy têm cho mình miếng trầu. Tôi ngồi chờ. Không biết chuyện gì sẽ xảy ra. Ở nhà, thầy mặc quần áo ta trông như một đạo sĩ, một tiên ông. Trên chiếc bàn thấp quyển sách về Dịch lý đang mở ngỏ. Chắc thầy đang đọc. Thầy nhai trầu bỏm bẻm. Tôi nghe rõ tiếng nhai chóp chép. Ăn xong miếng trầu. Nhổ bã vào chiếc ống nhổ đã gần đầy nước trầu. Thầy nhìn vào mắt tôi một lúc. Đôi mắt thầy lúc này tinh anh lạ thường. Đôi mắt không còn thấy lờ đờ, xa vắng như thấy hàng ngày trong lớp học.

-Thầy muốn nói với em chuyện này.
– ?.
-Thầy muốn em soạn học đi thi Tú Tài Pháp.

Tôi chưng hửng. Thầy nói tôi soạn học đi thi Tú Tài Pháp ? Một tên học sinh học ban Toán trường Việt mà lại nhẩy qua thi Tú Tài Pháp.
-Em cứ nghe theo lời thầy. Em có khả năng … Thầy biết.

Thầy quay vào đống sách. Rút ra mấy quyển sách Pháp dầy cộm trông như những quyển từ điển đưa cho tôi. Trong đó có những quyển nghị luận luân lý, văn chương, sử ký … Cầm đống sách thầy trao cho ra về.
-Em xin đa tạ thầy, nhưng em không biết có học nổi không…
-Hãy tin thầy. Thầy biết em hơn ai hết.

Tôi vẫn không tin là mình có khả năng đi thi nổi Tú Tài Pháp. Nhưng có một điều kỳ lạ, kể từ hôm đến nhà thầy về tôi như được cho uống một liều thuốc hồi sinh trở lại. Tôi hân hoan vì ít ra cũng có một người biết mình, hiểu mình mà người đó lại là thầy mình. Tâm thần không còn bị sa sút đến độ chán đời muốn buông xuôi tất cả nữa. Tôi từ từ tìm lại được niềm yêu đời. Tôi nhìn những bạn học, những bóng hồng ngoài hành lang, trong sân trường lại tìm thấy lại niềm vui sống tuổi học trò trở lại. Lúc đó bên lớp Nhị A có những người đẹp như Minh Châu (hiện giờ là dược sĩ ở Sydney, Úc châu), Tố Mai (Na Uy)… Người đẹp Minh Châu đi xe đạp như Phù Đổng thiên vương cưỡi ngựa sắt. Tôi có chiếc xe đạp “cuốc” của Pháp hiệu “Cigogne” (con Cò) vậy mà cũng không tài nào đạp xe bắt kịp được. Người đẹp lấy biệt hiệu là Tố Mai hát hay và làm thơ cũng có hạng. Tôi có làm một bài thơ nhan đề Tối Mai chọc ghẹo cái tên Tố Mai như sau :

Người đâu hứa hão, để chờ hoài.
Hết Tối Mai rồi lại Tối Mai !
Này tớ bảo cho nường biết nhé.
Phòng khuê, nhớ khóa kỹ then cài.

Tôi vẫn ngán và ngại soạn học để đi thi Tú Tài Pháp, vào lớp tôi vẫn ngồi lơ tơ mơ làm thơ. Thầy thường xuống chỗ tôi ngồi. Không nói một lời nhưng đọc trong ánh mắt thầy tôi biết thầy hỏi tôi đã soạn học thi Tú Tài Tây chưa. Cuối cùng tôi gật đầu đại cho thầy an tâm. Hôm đó tôi về dở mấy quyển sách Pháp ra đọc. Thấy cũng hiểu được. Tôi liên lạc vối anh tôi ở Đà Nẵng nhờ ông anh lấy hộ ngày giờ thi, chương trình học và mua sách giáo khoa Pháp ở trường Collège Français de Tourane. Chỉ còn có vài tháng nữa là có khóa thi Tú Tài Pháp. Tú Tài Pháp thi trước Tú Tài Việt vài tháng. Khi có chương trình rồi tôi bắt đầu học “gạo”, đúng ra phải nói là học “bánh mì baguette”. Từ đó giờ Việt văn của thầy tôi mang quyển Nghị Luận Luân Lý Dissertation Morale của thầy cho vào lớp ngồi nghiền ngẫm.

Nhìn thấy tôi học soạn thi Tú Tài Pháp, đôi mắt thầy long lanh tràn đầy hạnh phúc. Rồi tới ngày thi, tôi cũng liều vác bút đi thi. Tôi đậu ngay Tú Tài Pháp phần thi viết. Nhưng phần thi oral mới là phần tôi run và sợ. Các ông Tây bà Đầm nói tiếng Pháp như gió. Nhưng không ngờ tôi vào thi oral thật là xuông xẻ. Tin tôi đậu Tú Tài Pháp nổ ra như tin tôi thi rớt năm trước. Tôi đến tạ ơn thầy. Thầy nắm tay tôi chỉ nói “Bây giờ thì em tin mình rồi chứ ? Thầy có con mắt nhìn người”.

Ba tháng sau, tôi không học một chữ, lại vác bút đi thi Tú Tài Việt và tôi đậu không một chút khó khăn. Vì đậu Tú Tài I Pháp tôi theo học chương trình Pháp luôn. Tôi về ở nhà ông anh ở Đà Nẵng để học trường College Français de Tourane. Ở đây không có classe terminale ban Toán tôi đành học ban Vạn Vật. Năm sau tôi đậu Tú Tài II Pháp không mấy khó khăn. Vì học ban Vạn Vật trường Tây nên khi lên đại học tôi chỉ còn một vài chọn lựa. Một là ra Huế học trường Đại Học Sư Phạm ban Pháp Văn, hai là vào Saigon học Y Khoa hay Dược Khoa.

Biến cố bạn bè bị ngộ độc thực phẩm ở Đại Lãnh và nhất là cái chết oan uổng của chị tôi khiến tôi quyết định thi vào Đại học Y Khoa. Tôi thi vào Năm Dự Bị Y Khoa bằng chương trình Pháp tức dùng ngôn ngữ Pháp (Français, langue véhiculaire) và đậu ngay. Nếu tôi không rớt Tú Tài I ban Toán thì chắc sẽ học đệ nhất ban Toán rồi sẽ lên đại học đi theo ngành khoa học vào học trường Đại Học Khoa Học. Nếu tôi không thi vào Y Khoa bằng chương trình Pháp thì khó lòng tôi có thể lọt được vào cổng trường Đại Học Y Khoa Saigon vì chắc chắn tôi không thể nào cạnh tranh lại nổi với các học sinh ban A nổi tiếng là học rất gạo của trường Việt.

Sau khi vào đại học, tôi chỉ có một dịp về thăm lại Qui Nhơn và chỉ gặp lại thầy Quyến có một lần. Lần đó thầy gầy và già đi nhiều. Trông thầy lúc này như một đạo sĩ khổ hạnh. Chỉ còn ánh mắt tinh anh. Cái ánh mắt thầy nhìn tôi khác hơn những ánh mắt thầy nhìn người khác. Đôi mắt của một sư phụ nhìn đệ tử đầy trìu mến. Về sau, tôi thường hỏi thăm Nguyễn Hữu Ân, cháu của thầy, về thầy cho tới khi tôi và Ân đi vào cuộc sống thời chiến tranh không còn gặp nhau nữa.

Tôi vẫn ân hận là không biết những giờ phút cuối cùng đời thầy ra sao.

Thầy đã có một ý nghĩ và một con mắt nhìn tôi khác thường và đã giúp tôi làm một chuyện khác thường. Nếu không có thầy “có con mắt biết nhìn người”, thì đời tôi sẽ đi về đâu ? Thầy đã thay đổi hẳn vận mạng đời tôi.

Hôm nay viết mấy dòng này thành thật nghiêng mình tri ơn Thầy. Chắc chắn, con sẽ nhớ Thầy cho tới ngày con lìa đời. Những gì con thực hiện được ở đời này phần lớn là do công ơn Thầy.

.
BS.Nguyễn Xuân Quang
Nguồn bacsinguyenxuanquang

.

Catégories
Hương Quê

Huế Thơ và Thơ Huế

Dang Tien (BP60)

.

Nói đến Huế, người ta thường xưng tụng “Huế đẹp và thơ” là tên một tập thơ của Nam Trân (1939) với những hình ảnh đặc sắc Huế.

Thuyền nan đủng đỉnh sau hàng phượng
Cô gái Kim Luông yểu điệu chèo

Thuyền đủng đỉnh” phải là con đò Huế, “yểu điệu chèo” phải là cô gái sông Hương. Nhưng Nam Trân Nguyễn học Sỹ ,1907-1967 là “học trò trong Quảng ra thi ; thấy cô gái Huế chân đi không đành“, chứ không phải là người Huế. Giới thiệu Nam Trân, Hoài Thanh đã nhận xét : “tả cảnh Huế chưa ai bằng Nam Trân” nhưng tác giả Thi Nhân Việt Nam (1942) lại có nhận xét :
“Huế đẹp, Huế nên thơ. Ai chẳng nói thế ? Ai chẳng thấy thế ? Nhưng sao hình ảnh Huế trong thi ca lại tầm thường thế ? có lẽ cảnh Huế quá huyền diệu, quá mơ màng không biết tả thế nào cho thoát sáo”.

Nói thế là khe khắt vì thơ về Huế đã và đang có nhiều bài hay, nổi tiếng như bài Đây thôn Vỹ Dạ của Hàn Mặc Tử (1912-1940) người Quảng Bình :

Sao anh không về chơi thôn Vỹ
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền

Cảnh Huế đã gây rung động nhiều lòng người phương xa ghé lại, làm quan, đi học hay du lịch. Nguyễn Du đã làm quan kinh sư, có người cho rằng không gian Phú Xuân đã góp âm hưởng vào truyện Kiều. Điều này không chắc, nhưng Nguyễn Du đã làm nhiều thơ về Huế, như bài Thu Chí (1805) :

Hương Giang nhất kiến nguyệt
Kim cổ chứa đa sầu

dịch

Sông Hương trăng một vầng
Kim cổ sầu mang mang

Thơ Huế của Nguyễn Du chủ yếu nói lên tâm sự bất đắc chí và hoài cổ, chứ không chủ tâm tả cảnh núi Ngự sông Hương. Thơ Cao Bá Quát cũng vậy. Nổi tiểng nhất là câu thơ tả sông Hương (1809) :

Vạn chướng như bôn nhiễu lục điền
Trường giang như kiếm lập thanh thiên

dịch

Ruộng biếc núi vòng như chạy quanh
Sông dài như kiếm liếc trời xanh

Toàn bài tám câu mang tâm trạng nhớ nhà. Bài tứ tuyệt Hương Giang tạp vịnh tả cảnh thành phố, nhưng chủ yếu là để nói lên chí khí ; và hay nhất ở hai câu sau :

 Copyright Cine 09

Nhất đái duyên giang giáp đệ hùng
Ngũ quân khai phủ chiếu tây đông
Vinh khô tứ thập dư niên sự
Chỉ hữu hà hoa tự cựu hồng.

dịch
.
Gác tía lầu son lóa mé sông
Này dinh này phủ ngất tây đông
Bốn mươi năm ấy nào vinh nhục
Mà đoá sen xưa vẫn đỏ hồng

Dọc sông dãy dãy lâu đài,
Này đồn, này phủ, đông tây đối đầu.
Bốn mươi năm, những bể dâu
Màu sen năm cũ vẫn màu hồng xưa

Hơn trăm năm sau, nhà nho Phan Bội Châu có bài phú vịnh phong cảnh Huế (1926) với câu thơ nổi tiếng về con sông Hương “Hương ơi, e phải mày không – Sông ấy hoá ra mình có“.

Nội dung bài phú dài diễn tả niềm đau đớn của người dân mất nước chứ không phải để tả phong cảnh cố đô, nơi Phan Bội Châu, ông già bến Ngự, bị giam lỏng.

Thời kỳ Phan Bội Châu bị quản thúc ở Huế cũng là thịnh thời của thơ mới. Hai nhà thơ mới chịu nhiều ảnh hưởng Huế vì ăn học tại cố đô là Xuân Diệu và Huy Cận. Xuân Diệu (1917-1985) chỉ học ở Huế một năm, năm cuối bẩc trung học (1936-1937) nhưng đúng vào thời anh hoa phát tiết, năm 1936 bắt đầu có thơ đăng báo và trái tim non trẻ đã rung động sâu xa trong tiềm năng sáng tạo, qua tập Thơ Thơ (1938). Huy Cận, 1919-2005, bạn thân của Xuân Diệu, thời đó ăn học ở Huế, đã kể lại :

“Xuân Diệu gặp Huế là gặp người và cảnh đồng điệu. Anh rất mê ca nhạc Huế và anh biết hát, hát khá hay, hầu hết các bài ca Huế, từ Nam ai, Nam bằng, tứ đại cảnh đến phú lục, lưu thủy, kim tiền, bình bán, phẩm tiết … đến các điệu hò mái nhì, mái đẩy (…). Việc anh thuộc ca nhạc Huế có ảnh hưởng tốt cho sự phát triển của thơ anh, chính anh cũng nhận rõ thế “. (Bài thơ Thôn Vĩ, Huế,1987, tr. 53),

Tại hội nghị Văn Nghệ ngày 13-4-1949, Xuân Diệu trổ tài :
“Xuân Diệu hò Huế, Xuân Diệu vuốt một câu ca dao như ta nâng một giải lụa … Những tiếng reo hò ở dưới : nữa, hò nữa ! xen vào những tràng pháo tay … “ (Nguyễn Huy Tưởng kể lại, báo Văn Nghệ, Việt Bắc, số 11-12 tháng 4/5/1949).

Bài Nguyệt Cầm của Xuân Diệu là hồi âm những giai điệu hồi quang của ánh sáng Huế lung linh trong thơ :

Trăng nhập vào dây cung nguyệt lạnh
Trăng thương, trăng nhớ, hỡi trăng ngần !
Đàn buồn, đàn lặng, ôi đàn chậm
Mỗi giọt rơi tàn như lệ ngân

Mây vắng, trời trong, đêm thuỷ tinh
Linh lung bóng sáng bỗng rung mình
Vì nghe nương tử trong câu hát
Đã chết đêm rằm theo nước xanh.

Người ta thường ngân nga thơ Xuân Diệu mà quên rằng văn xuôi Xuân Diệu cũng xuất sắc như tập Phấn Thông Vàng với một số bài viết tại Huế, như đoạn tả cảnh Nam Giao :

“Chiều lên dần. Tôi càng đi, trời càng tối. Con đường Nam Giao thẳng mà không bằng , tôi khởi đi trong ánh sáng và tôi tới dần trong bóng tối, tựa hồ bên thành phố Huế là ngày, bên đàn Nam Giao là đêm … Vâng, chiều lên dần ; chiều không xuống … “ (Thương vay, tặng Huy Cận, Phấn Thông Vàng, 1939).

Xuân Diệu quê nội Nghệ An, quê ngoại Bình Định, “cha đàng ngoài mẹ ở đàng trong hai mái đèo ngang một mối tơ hồng” (1960). Còn Huy Cận quê Hà Tĩnh ; và Xuân Diệu đã viết : “Huy Cận còn có một quê hương thứ hai, là Huế”, vì Huy Cận đã sống và ăn học tại Huế mười hai năm (1927-1939) học từ lớp ba đến tú tài, đến khi nguồn thi hứng đã định hình. Rất nhiều bài trong tập Lửa Thiêng (1940) đã được khai từ hay khai trí tại Huế, như bài Chiều Xưa đăng trên báo Ngày Nay, số Tết 1938, cùng một khung với Cảm Xúc của Xuân Diệu

Chiều gieo theo gió veo hồ,
Đèo cao quán chật, bến đò lau thưa.
Đồn xa quằn quại bóng cờ,
Phất phơ buồn tự thời xưa thổi về

Ngàn năm sực tỉnh, lê thê
Trên thành son nhạt, _ chiều tê cúi đầu… :

Lưu ý biên tập :giữa câu cuối, có dấu phẩy thêm gạch ngang. Dấu phẩy thuộc cú pháp, syntaxe, gạch ngang thuộc thi pháp, poetique. Bút pháp này Huy Cận lĩnh hội từ Rimbaud. Giữa những cặp lục bát, có khoảng trắng. Mỗi cặp lục bát là một khổ thơ, strophe.

Cho mãi đến cuối đời, 70 năm, sau Huy Cận vẫn chung thuỷ với nguồn thơ thưở nhỏ. Thơ Huế của Huy Cận về sau rõ nét, hiện thực và nhân đạo, như bài Phố Đông Ba làm 1972 :

Phố Đông Ba của tôi ngày bé
Có ông cả Soạn đánh cờ cao
Lắm khi một buổi đi vài nước
Để bạn bè vây nghĩ nát đầu

Ông lại đàn hay. Nguyệt tiếng tơ
Hồn ve dắn dỏi dưới trăng mờ
Mòn tay tài tử dăm cung nhấn
Nghe cả trời thu nức nở mưa

Bài thơ mô tả chính xác đường Đông Ba một khu phố nghèo ở Huế những năm 1930 với sinh hoạt thời đó, nhất là về mặt văn nghệ dân gian. Huế giàu chất thơ không phải chỉ nhờ những nét đẹp đài các bên ngoài :

Hai hàng, tôn nữ cười trong nón.
Thơ mở lòng ra đón bóng yêu

(thơ Quỳnh Dao)

hoặc :

áo tím qua cầu thơ cũng hết mùa thu
(thơ Trang Châu)

Huế còn giàu chất thơ trong nội dung đời sống, trong tâm thức âm trầm về thân phận con gnười vá số phận dân tộc, những ám ảnh mà Huy Cận đã ghi lại được trong bài Phố Đông Ba

Cuối phố gốc cây chiều chủ nhật
Là ông xẩm chợ với hai con
“Kinh đô thất thủ” vè quen thuộc
Lớn nhỏ ngồi nghe nặng trĩu hồn

Thất thủ Kinh Đô” là một bài vè, dài khoảng 2000 câu, kể lại cuộc phản công quân sự của triều đình Huế đêm 4/7/1885 : Thất bại, vua Hàm Nghi phải bỏ Huế ra Quảng Trị. Cuộc thất bại của triều đình là bi kịch của đất nước nằm chồng lên thảm cảnh của nhân dân Huế.

Tuy nhiên bên cạnh những hình ảnh nhức nhối ấy, Huế vẫn để lại trong hồn thơ Huy Cận những kỷ niệm dịu dàng, mượt mà như giòng sông phẳng lặng trong Huế Vấn Vương (1978) Xanh mượt bờ xanh Huế Huế ơi !
Cỏ cây đây đã hoá vườn trời
Người đi bước nhẹ không nghe tiếng
Mà nặng lòng yêu biết mấy mươi.
Huế hoa thiên lý mùi hương thoảng
Huế tím chiều thu giậy ước mơ
Mái đẩy câu hò ngân ánh nước
Sông không trôi bởi luyến lưu bờ Tuổi nhỏ đời ta Huế giữ không ?
Cho ta xin lại tháng năm hồng
Cho ta trở lại ngày xưa cũ
Mới hái mùa thơ giữa độ bông

Tình bạn tình yêu Huế khéo ươm
Hoa xuân trái đậu tháng năm trường
Bâng khuâng nay nhện chiều giăng lưới
Bảng lảng lòng ai Huế vấn vương …

Cpyright Vink 2008

Đề tài văn thơ mênh mông. Chúng tôi trích dẫn tác phẩm Xuân Diệu – Huy Cận vì mảng thơ Huế chiếm phần quan trọng – ít nhất là trước 1945 – trong sự nghiệp hai ông. Một mặt hai ông tiếp thu vào cảm xúc, và phản ánh lại khá rõ nét những âm sắc của cố đô, mặt khác tư liệu về họ khá đầy đủ, cho phép chúng ta lý luận chính xác. Còn nhiều bài khác của tác giả khác về Huế, chúng tôi sẽ có dịp bàn thêm vào dịp khác.

Có tác giả chỉ ghé qua Huế một lần và cũng để lại tác phẩm hay như Nguyễn Bính 1918-1966, với tập thơ Mười hai Bến Nước (1942) gồm nhiều bài nổi tiếng như : Xóm Ngự Viên, Giời Mưa Xứ Huế,

Đặc biệt nhạc sĩ Văn Cao 1923-1995, chỉ một lần ghé Huế, nhưng đă tiếp thu nhiều rung động nghệ thuật. Ông kể lại  : “Huế là một nguồn sáng tạo của tôi trong những năm 1940. Thơ và nhạc là điều tôi tìm nguồn từ ấy. Có lẽ lịch sử và cảnh vật của cố đô có những điều gây cảm xúc cho sáng tạo. Có lẽ sự sáng tạo của người dân Huế giúp tôi làm được âm nhạc và thơ”. (Bài Thơ Thôn Vỹ, 1987, tr.152). Đây là tiếng đàn trên sông Hương mà nhà thơ Văn Cao đã ghi lại, trong bài nhạc Thiên Thai nổi tiếng. Và trong thơ :

Em cạn lời thôi anh dứt nhạc
Biệt ly đôi phách ngó đàn tranh
Một đêm dàn lạnh trên sông Huế
Ôi nhớ nhung hoài vạt áo xanh …

Chúng ta đã cùng nhau nhìn lại mảng thi ca về Huế trước 1945 của những tác gia không phải người Huế. Sau này, có dịp, ta sẽ tìm hiểu thêm về một xứ Huế gần đây hơn, thời sự hơn, với những sôi nổi và đau thương chưa lắng xuống.

Vì không phải chỉ có một Huế đẹp và thơ xa xôi trong mộng tưởng. Vì còn một Huế khác, đau thương và khốn khó, như trong ca dao xứ Huế :

Ví dầu đèn tắt, có trăng,
Khổ thì em chịu, biết mần răng đặng chừ..

.

Nhân chương trình Lễ Hội Huế 2010, tôi muốn gửi tấm lòng thiết tha của người hải ngoại về với mảnh đất Huế đau thương và con người Huế yêu thương, về một vùng văn hoá giàu có và những con người khốn khó.

Với hy vọng rằng niềm mừng vui hôm nay của Festival sẽ không tàn theo những trận pháo bông, sẽ không lịm tắt theo lời ca điệu múa.

Hy vọng rằng Festival không dừng lại ở màu sắc phương xa, gọi là exotic, của những nền văn hoá đã phôi pha hay đang hấp hối.

Và hy vọng rằng Festival Huế 2010 sẽ thổi bùng lên ngọn lửa văn hoá Phú Xuân chưa bao giờ đuối sức, và thổi bùng lên tiềm năng văn hoá hùng tráng của đất Huế và người Huế, một bộ phận hữu cơ của đất nước Việt Nam, một âm sắc đặc biệt trong nền văn minh thế giới.

Gửi Huế niềm tin thiết tha và da diết.

Đặng Tiến,
Viết lại, Orleans, 01 tháng Tư, 2010.
Ngày giỗ Trịnh Công Sơn.

.

Catégories
Hương Quê

Muôn Đời Diễm Tuyệt

Bạn hỏi thăm tôi nơi viễn phương,
Chắc còn tha thiết nhớ Quê Hương,
Tiếc thương kỷ niệm thời sung mãn,
Thuở nắng thanh bình vạn nẻo vương?

Muôn đời diễm tuyệt bức tranh quê!
Nhớ cánh diều bay tận cuối đê,
Nhớ bóng cò đi bên ruộng lúa
Mục đồng thổi sáo cưỡi trâu về.

Nhớ con đường nhỏ lũy tre xanh,
Nhớ mấy hàng cau đón gió lành,
Nhớ chuyến đò ngang soi bóng nước,
Tiếng hò giã gạo dưới trăng thanh.

Quán nước làng mây nhớ thuở nào,
Chúng mình đối ẩm ngắm trăng sao.
Hương quê thơm ngát vần thơ họa,
Hồn ngỡ say men cốc rượu đào…

Ngày nay, kẻ ở lại người đi,
Man mác bên lòng hận biệt ly
Bạn rủi sa chân vòng khổ ải
Tôi còn lặn đặn kiếp tu mi.

Tôi sợ hoàng hôn, sợ bóng đêm,
Thời gian khêu gợi nhớ nhung thêm!
Quê hương, quyến thuộc thân bằng đã
Cách biệt muôn trùng mõi cánh chim!

Hồ Mộng Thiệp
(1920 – 1987)

.

Catégories
Hương Quê

Cà kê chuyện Gà năm Dậu

Đặng Tiến (BP60)

.

Quê tôi có lời hát ru thiệt hay :

_ Chiều chiều con quạ lợp nhà
Con cu chẻ lạt, con gà đưa tranh

Câu hát đơn giản truyền đi một thông điệp hoà bình và hạnh phúc, giấc mơ đã xuyên triền miên qua nhiều thế hệ.

Ước mơ hòa bình : quạ là loài ác điểu chuyên ăn cướp trứng và bắt cóc gà con ; gà là loài gia cầm hiền lành, nhưng khi bảo vệ ổ trứng và đàn con cũng trở thành hung tợn, thường đánh bạt đối phương.

Ở đây hai con chim thù địch hợp tác làm chung một việc. Quạ chim trời, ở vị thế cao, làm việc chủ đạo là lợp nhà ; gà, chim chuồng, ở vị trí thấp, đưa tranh làm việc trung gian ; cu, biểu tượng cho tình yêu đôi lứa, chẻ lạt, tạo điều kiện ràng buộc.

Về câu ca dao này, nhà thơ Thanh Thảo đã co nhận xét tinh tế : quạ làm thợ cả, gà làm thợ phụ. Thật thế quạ lqé chim trờivà chim dữ, sống bằng bạo lực, ở đây khởi sự lợp nhànghĩa là được “cải tạo”, thuằn hoá theo nghĩa “apprivoiser” cũa Saint Exupéry trong Hoang Tử Bé : con chồn đã được thuần hoá bởi tình cảm.

Ước mơ hạnh phúc : mái nhà, lợp tranh – trong một xứ sở nghèo – bình thường che mưa che nắngvà khi cần có khả năng chống đỡ giông bão. Mái nhà trước tiên bảo vệ cơ thể, sau đó tạo điều kiện cho hạnh phúc cá nhân hay đôi lứa và gia đình, tộc họ. Mái nhà tượng trưng tình thương và sum họp. Vợ chồng gọi nhau là nhà, một hoán dụ và ẩn dụ thắm thiết. Mà tượng trưng cho ngôi nhà là mái nhà : mẹ già phơ phới mái sương, hình ảnh trong Chinh Phụ Ngâm thật tuyệt vời.

Hang động là địa chỉ đầu tiên của loài người, thuộc về thiên nhiên.Mái nhà, nhân tạo, là tiền trạm của văn hoá, của tiến bộ ; nò di chuyển, di cư, di tản, nhưng dù ở chân trời nào, khí hậu nào, mái nhà vẫn là trạm cuối của đời người. Thậm chì ở thế giới bên kia, Đạm Tiên khi về báo mộng cho thúy Kiều, dã cho địa chỉ : hàn gia ở mé Tây thiên, dưới dòng nước chảy…Do đó công việc lợp nhà ở đây rất ý nghĩa. Chữ lợp nôm na mà chính xác, vì chỉ có một công dụng từ vựng duy nhất : người ta lợp nhà chớ không lợp gì khác. Lợp tranh, rạ, lá dừa hay lợp ngói, lợp tôn thi vẫn là lợp nhà. Hai động ngữ kia cũng vậy : Chẻchẻ lạt đưa tranh. Chẻ là rọc theo chiều dọc, nương theo thớ tự nhiên của thân cây, đối lập với chặt và đứt ngang làm đứt đoạn ; đưa là động tác trung gian, như trong chữ đưa đò, đưa thư. Như vậy cả chùm ba động ngữ đều mang chung một ý nghĩa tiếp nối, ràng buộc. Danh từ chủ thể cũng nôm na : quạ, cu là tiếng tượng thanh, nhại tiếng chim ; tuy là gốc Hán nhưng du nhập từ lâu, có thể là qua tiếng Thái (Kai là gà). Cả ba loài chim đều la hình ảnh thân thuộc của thôn quê.

Còn lại chữ chiều chiều đậm tình mà nhạt nghĩa. Nhạt nghĩa vì chẳng nhẽcứ mỗi buổi chiều lại rủ nhau đi lợp nhà ? Ý nghĩa cuả nó chỉ là âm vang tình cảm.
Chiều chiều mở ra một thời gian nhớ nhung trong một chân trời mộng mị ; nó chỉ là giai điệu đẩy đưa. Ca dao Việt nam có hơn một trăm câu nhập đề chiều chiều như vậy.

Có người cho rằng câu hát ru nói trên bắt nguồn từ lối hát Bài chòi ngày Tết ở miền Trung, khi rút ra con bài Ba Gà, người hô sẽ ngân nga : “Chiều chiều… Con quạ… con cu… con gà, là ba con, uớ là con Ba Gà…”. Nhưng có lẽ người hô Bài Chòi khéo sử dụng một câu ca dao có sẵn từ trước.

Về sau có ngưới ráp nối thêm :

(…) Chèo bẻo nấu cơm nấu canh
Chìa vôi đi chợ mua hành về nêm
(…) Chuồn chuồn đi bán chiếu manh
Niềng niễng lót ổ, vàng anh vô nằm

Nhưng chỉ là cho câu chính loãng đi. Như bóng chiều còn lưu luyến.

Tranh Gà Đông Hồ

_ Bên kia sông Đuống
Quê hương ta lúa nếp thơm nồng
Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong
Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp

Câu thơ Hoàng Cầm thật đằm thắm, dù làm trong giai đoạn kháng chiến chống Pháp đang gay gắt, cụ thể là tháng 4/1948. Đông Hồ, quê Hoàng Cầm, là tên làng ven sông Đuống, tỉnh Bắc Ninh, nay là Hà Bắc, nổi tiếng về loại tranh dân gian thường được chưng bày ngày Tết từ thế kỷ XVII.

Hoàng Sĩ Khải, Tiến sĩ khoa 1544, trong bài thơ dài hơn 300 câu, Tứ thời khúc Vịnh, tả cảnh Tết vùng Thăng Long :

_ Tranh vẽ gà cửa treo thiếp yểm
Dưới thềm lầu hoa điểm Thọ Dương

Thọ Dương là hoa mai, theo điển cố

Như vậy tranh Gà, ngày nay là trang trí, xưa kia có tác dụng trừ tà, có lẽ vì con gà gáy sáng, có khả năng xua đuổi bóng tối và tà ma, mang lại ánh sáng, bình an, tin tưởng, sức khỏe, dương khí cho con người. Do đó, tranh gà được phổ biến trong nhiều loại tranh dân gian như Đông Hồ, Hàng Trống và Kim Hoàng.

Thật ra, không cứ gì ở nước ta, con người đâu đâu cũng cần ánh sáng và hơi ấm của mặt trời, hình tượng gà, do đó được trọng vọng ở nhiều nền văn hóa khác nhau, như con gà trên đỉnh nhà thờ Thiên Chúa giáo ở phương Tây.

Tại nhiều nước, gà lại có ý nghĩa riêng : Ở Nhật Bản, gà quan hệ với Thái Dương Thần Nữ ; ở Pháp, gà là biểu tượng dân tộc dòng dõi gô-loa (gaulois) một danh từ đồng âm với tên gà bằng tiếng La-tinh (gallus) – và nhiều chuyện gà khác kê khai ra thêm cà kê dài dòng.

Chúng tôi chỉ nhấn mạnh vào tranh Gà Việt Nam, hình ảnh của ngày Tết âm lịch thịnh hành vì nhiều lý do. Ngoài niềm tin tự nhiên, như trên đã nói, còn có những lý do văn hóa. Theo sách vở xưa và truyền thuyết, thì gà trống ứng vào tháng Giêng, ngày mồng Một cũng mang cầm tinh gà, do đó, con gà biểu tượng cho ngày Tết Nguyên Đán.

Văn, Vũ, Dũng, Nhân, Tín

Hình ảnh gà trống cánh lông sặc sỡ, dáng dấp oai dũng còn tượng trưng năm đức tính : mào đỏ giống mũ cánh chuồn là văn (chữ Hán mào gà gọi là quan, đồng âm với quan (mũ) và quan (chức) ; cựa sắc nhọn như gươm là  ; đấu đá không sợ địch là dũng ; chia mồi cho gà con là nhân, gáy đúng giờ là tín.

Một đức tính không nghe sách vở ca ngợi, là khả năng tính dục, nôm na là “đạp mái”. Do đó tranh Gà thường kèm theo phụ đề như Thần Kê (Gà Thần) với chữ Kê thần chú viết thảo, có tác dụng trừ tà ; hay Đại Cát (vui lớn) ; Nghênh Xuân ; tranh “Bé trai ôm gà trống” còn có tên là Vinh Hoa, có phần trọng nam khinh nữ lỗi thời.

Bên cạnh hình ảnh gà trống, còn có tranh Trống Mái : Gà Thư Hùng , Gà Đàn, Trống MáiĐàn con với hảo ý chúc tụng gia đình đông đảo và đông đủ, hòa thuận, ấm no trong truyền thống tư tưởng dân gian.

Gà mái tượng trưng cho tình mẹ con :

_ Con rắn không chưng (chân) lượn năm rừng bảy rú
Con gà không vú nuôi đặng chín mười con

Cho đến gà rừng cũng biết thương con :

Cuốc kêu réo rắt đầu non
Gà rừng táo tác gọi con tha mồi
Lạnh lùng thay láng giềng ơi…

Gà con tượng trưng cho tình cảm anh em, đồng bào, đùm bọc, thương yêu, nhường nhịn lẫn nhau vì “cùng một mẹ”. Tranh Đông Hồ gợi lên được những tình ý ấy.

Nhà thơ Hoàng Cầm đã không cường điệu khi viết :

_ Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong
Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp

Màu là cách nói tượng trưng, hoán dụ, ám chỉ tổng thẻ nghệ thuật Đông Hồ, từ chất liệu đến kỷ thuật.

Chất liệu trước tiên là giấy : giấy dó làm bàng cây dó, mọc hoang trong rừng núi, do các làng Bưởi, làng Cót, ngoại thành Hà Nội sản xuất. Nguyễn Tuân co chuyện Cô Dó trong loạt Yêu Ngôn là chuyện làm giấy. Gọi là giấy điệp vì nghệ nhân phất lên một lớp màu trắng, làm bằng vỏ con điệp (một loài sò óc) nghiền thành bột, khiến cho chất giấy cứng xốpvà vân lê màu nền độc đáo.Màu dân tộc khác là màu vàng lấy từ hoa hòe hay hạt đành đành, màu đỏ vang lấy từ gỗ cây vang, màu đỏ son lọc từ sỏi quăng, màu xanh của lá chàm, màu đen than lá tre khô. Nghệ thuật dân gian chơn chất nay đã gây ấn tượng và hứng thú, ngạc nhiên và kính phục cho nhiều họa sĩ tân học như Tô Ngọc Vân, Nguyễn Đõ Cung, Nguyễn Sáng.

Và trong Thơ, nhiều tác giả đã nhắc đến tranh Đông Hồ, như Đoàn văn Cừ :

_ Lũ trẻ con mải ngắm bức tranh gà
Quên cả chị bên đường đang đứng gọi
(Chợ Tết)

Và đặc biệt nhất là Vũ Hoàng Chương, vào ngày Tết Bính Thìn 1976, đã làm bài thơ xuân cuối cùng của đời mình :

Vịnh tranh Gà Lợn
Sáng chưa sáng hẳn, tối không đành
Gà lợn, om sòm rối bức tranh
Rằng vách có tai, thơ có họa
Biết lòng ai đỏ, mắt ai xanh
Mắt gà huynh đệ bao lần quáng
Lòng lợn âm dương một tấc thành
Cục tác nữa chi, ngừng ủn ỉn
Nghe rồng ngâm váng khúc tân thanh

Gà bôi phẩm

Nhà văn Thạch Lam, trong Nhà Mẹ Lê, miêu tả một gia đình cùng khổ, mà ông đã thật sự quan sát bên hàng xóm.

Nhà mẹ Lê là một gia đình một mẹ với mười một người con (…)Mười một đứa mà đứa lớn mới có mười bảy tuổi, đứa bé nhất hãy còn phải bế trên tay (…).

Trong ngày hè nóng nực, con bác Lê đứa nào cũng lở đầu, nên bác lấy phẩm xanh bôi cho chúng nó. Trông mẹ con bác lại giống mẹ con một đàn gà, mà người ta bôi xanh lên đầu cho khỏi lẫn

Đàn gà bôi phẩm xanh ở đây không biết rõ là gà thật trong sân, hay cảnh Gà Đàn trong tranh dân gian.

Chửi mất gà là văn hóa ?

Nói chuyện con gà trong văn học nghệ thuật dân gian, nếu chỉ điểm qua truyền thống cao siêu, những tình ý tinh tế mà không đề cập đến chuyện chửi mất gà, thì quả là một khiếm khuyết trầm trọng. Trầm trọng vì thiếu tính cách… nhân dân, vì chửi mất gà cũng là một nét văn hoá.

Ví dụ một trích đoạn chửi mất gà miền Núi Nùng Sông Nhị :
“Thằng đứng chiếu ngang, thằng sang chiếu dọc, thằng đọc văn tế, thằng bế cái hài, thằng nhai thủ lợn. Con gà nó ở nhà tao nó là con gà, nó sang nhà mày nó là thần đanh đỏ mỏ…”

Miệt Núi Ngự Sông Hương, lời chửi còn ngân nga hơn :
“Hôm qua tau mất con gà mái dầu khoang cổ. Hôm ni tau mất con gà mái nổ khoang bông. Con mô bắt là gái trốn chúa lộn chồng. Thằng mô bắt là đàn ông ba đời đi ở đợ… Tụi bay hãy vén mái tai, gài mái tóc, chống cửa ngõ cho cao, chặt hàng rào cho thấp mà nghe tao chửi…

Bay ăn cho chồng bay sợ, cho vợ bay kinh, bay ăn cho ngã miếu sập đình, cho mồ cha bay chết hết, để một mình bay ăn.”

Và như thế người chửi cứ ca cẩm hằng giờ, hằng buổi. Lời lẽ ở đây chủ yếu là vần vè, câu chữ tầm thường, khuôn sáo, nhưng không phải là không có văn chương. Nhìn dưới góc độ dân tộc học, nó cũng là một khía cạnh văn hóa.

Thơ hay về gà

Nằm trên biên giới giữa văn học viết và truyền khẩu là câu thơ “gà” này :

Phất phơ ngọn trúc, trăng tà
Tiếng chuông Trấn Vũ, canh gà Thọ Xương

Nguyên là sáng tác của Dương Khuê (1839 – 1902), tả cảnh Hà Nội. Thọ Xương là tên huyện, khu thương mại, kết hợp với huyện Vĩnh Thuận, phía Hồ Tây lập thành phủ Phụng Thiên, sau đổi là Hoài Đức, là tên cũ của thành phố Hà Nội. Trấn Vũ là tên đền, còn gọi là Trấn Quốc hay Trấn Bắc, nằm trên một bán đảo nhỏ ven Hồ Tây.

Câu thơ có âm vang dân dã nên được phổ biến, nhiều người nhầm với ca dao, và lan truyền đi, theo những ngọn gió la đà, vào tận Thiên Mụ, Thủ Thiêm

Nền văn chương quốc ngữ, nhất là phong trào Thơ Mới 1932 – 1945, hình thành song song với sự phát triển các đô thị. Thời ấy, những thành phố lớn vẫn còn vọng âm thôn dã. Mà tiếng gà gáy là âm vang biên giới giữa nông thôn và thành thị – quá khứ và hiện tại. Do đó mà văn thơ eo óc tiếng gà, từ Lưu Trọng Lư đến lời nhạc Trịnh Công Sơn sau này.

Xao xác gà trưa gáy não nùng

Nhiều người thuộc câu thơ thật hay này của Lưu Trọng Lư. Chữ trưa đứng giữa câu như mặt trời đứng bóng, giữa hai âm g (gà-gáy) cân phân giữa hai cặp nguyên âm luyến láy khác : xao xác, não nùng ; tất cả loang xa trong không gian bằng phụ âm a.

Tế Hanh cũng đã tạo được tiếng gà não nùng như thế :

_ Sang bờ tư tưởng ta lìa ta
Một tiếng gà lên tiễn nguyệt tà

Nguyên âm t luyến láy 7 lần trên 14, như tiếng gà xé rách nội tâm.

Nhưng nhà thơ thân thiết nhất với loài gà có lẽ là Huy Cận, tác giả ngơ ngác tựa gà trống. Phải yêu tiếng gà sâu sắc mới làm được bài thơ này, trích trọn bài :

Gà gáy đầu thôn, gáy giữa thôn,
Mưa tinh sương mát tận tâm hồn.
Đêm qua tắt gió cây không ngủ,
Mưa sớm hàng cây đứng ngủ ngon.
Gà gáy trong mưa tiếng vẫn trong,
Giọng kim giọng thổ rộn vang đồng.
Được mùa giống mới, gà no bữa,
Tiếng gáy tròn như lúa nặng bông.

Núi Tản như con gà cổ đại
Khổng lồ, mào đỏ thắp bình minh.
Mênh mông gọi nắng cho mùa chín,
Từ buổi Sơn Tinh thắng Thủy Tinh.

Bài thơ làm năm 1972, tác giả tự giải thích bằng một tựa đề dài : Gà gáy trên cánh đồng Ba Vì được mùa, dài dòng một cách không cần thiết, nó lại hiện thực hóa bài thơ, giới hạn khả năng truyền cảm của tiếng gà.

Năm 1962, Huy Cận có bài Sớm mai gà gáy tả cảnh nông thôn, thơ súc tích, rạo rực, sâu lắng, riêng tư :

Tiếng gà gáy ơi ! gà gáy ơi !
Nghe sao ấm áp tựa nghe đời.
Tuổi thơ gà gáy ran đầu bếp,
Trâu dậy trong ràn, em cựa nôi.
Cha dậy đi cày trau kịp vụ,
Hút vang điếu thuốc khói mù bay.
Nhút cà, cơm ủ trong bồ trấu,
Chút cá kho tương mẹ vội bày. Gà gáy nhà ta, gáy láng giềng,
Ta nghe thuộc mỗi tiếng gà quen
Cha ơi con chửa nghe gà chú !
Nó cũng như mày hay ngủ quên. Hàng cau mở ngọn đón ngày vào,
Xóm nhỏ nép bên triền núi cao.
Gà lại gáy dồn thêm đợt nữa,
Nắng lên xòe quạt đỏ như mào.

Gà gáy ơi ! tiếng gà gáy ơi !
Nghe sao rạo rực buổi mai đời !
Thương cha lủi thủi không còn nữa,
Chẳng sống bây giờ thôn xóm vui.

(gáy ran = gáy vang ; ràn = chuồng trâu, bò (chính xác là phần trên của chuồng, nơi gác nông cụ) ; cày trau = cày vỡ, lật đất phơi cho ải, dễ tơi ; nhút = dưa muối làm bằng xơ mít)

Đời thực, cảnh thực, nhưng hiện thực đã nhập tâm, nhập thần, trở thành ma lực truyền cảm, yếu tính của nghệ thuật. Triền núi cao, đỏ như mào là cảnh thật, một rặng núi tên là Mồng Gà gần làng Ân Phú, quê hương của Huy Cận, một vùng cận sơn Hà Tĩnh.

Huy Cận đã trải qua thời thơ ấu, lang thang, đùa chơi, chăn trâu, thả diều dưới chân núi, và có thể cái tên núi Mồng Gà, kết hợp với tiếng gà gáy, đã suốt đời ám ảnh nhà thơ.

Khi anh tả núi Tản Viên “mào đỏ thắp bình minh” thì đã di chuyển tâm cảnh Mồng Gà từ ấu thời sang hiện thực, và từ hiện thực gợi lên huyền thoại.

Thậm chí khi ra biển khơi, anh vẫn lắng nghe Tiếng gà trên biển :

_ Tiếng gà trên biển hạ cung trầm,
Tiếng sóng hòa theo chẳng tạp âm.
Tiếng sóng làm nền cho tiếng gáy,
Trầm bao nhiêu, lại bấy xa xăm.
Câu cuối súc tích, yêu cầu được hiểu theo nhiều giai tầng khác nhau trong địa chất của thi pháp Huy Cận.

Năm 1967, Mỹ ném bom bắn phá dữ dội khu Tư. Huy Cận về sống tại vùng Thanh Hóa 3 tháng dưới bom đạn, giữa những ầm vang long trời lở đất thì nhà thơ lắng tai nghe :

Đây là giờ trưa. Những con gà cục tác.

Bài Giờ trưa làm tại Hàm Rồng bắt đầu như vậy. Và kết thúc :

_ Buổi trưa ấm lại bốn bề tiếp tục,
Con gà mái lại đâu đây cục tác.

Dụng ý nhà thơ là chọn một hình ảnh tầm thường đẻ nói lên sự bình tĩnh của người dân, ở cuộc sống, trước thảm họa của chiến tranh.

Xuân Diệu và Võ Phiến viết về Gà

Biết rõ vị trí con gà trong tâm thức Huy Cận thì sẽ thân thiết hơn với câu thơ tả cảnh gánh xiếc thời thơ ấu, trong tập Lửa thiêng (1940) :

_ Có chàng ngơ ngác tựa gà trống
E đến trăm năm còn trẻ thơ

Hình ảnh ngớ ngẩn, nhưng hay, thậm chí hay hơn nhiều câu duy lý khác về sau của Huy Cận, được nhiều người ca tụng.

Trong Lửa thiêng, Huy Cận có bài Em Về Nhà rười rượi, man mác :

_ Tới ngã ba sông nước bốn bề,
Nửa chiều gà lạ gáy bên đê
Làng xa lặng lẽ sau tre trúc ;
Bến cũ thuyền em sắp ghé về.

Âm vang “gà lạ” ngân lên thê thiết. Xuân Diệu đã phê là “trìu mến, chứa cảnh, chứa hồn, chứa cả những gì không thể nói được, đây là Ngã ba Tam Sa, trên sông Phố, tại Linh Cảm, ở quê Hà Tĩnh của Huy Cận, đã thấm vào chú học sinh từ mấy mươi năm trước”

Địa danh Xuân Diệu đưa ra, đã gây xúc động nơi Võ Phiến, trong một buổi “Đàm Thoại” với Nguyễn Xuân Hoàng, năm 1993 (không can dự gì đến tiểu sử Huy Cận).

Linh Cảm là một làng nhỏ, cách Vinh 30 km về phía Tây Nam. Võ Phiến kể :

“Địa danh ấy làm tôi liên tưởng đến mối tình đau đớn của người bạn lớn hơn tôi ba bốn tuổi…Người nữ sinh anh yêu chính ở Linh Cảm. Bấy giờ nào tôi biết Linh Cảm là đâu, nhưng cái cách anh nói đến hai tiếng Linh Cảm trong những đêm tâm sự truyền cho nó bao nhiêu là thắm thiết, bi thương, quằn quại (…) Đang dạy học ở Huế, anh bạn bỏ dạy, hỏi đi đâu, bảo nghe mách có chỗ dạy ngoài Hà Tĩnh, muốn ra xem thử. Lại lần khác gặp biến cố lớn, gia đình chờ mãi bặt tin anh. Về sau anh về, bảo rằng, lúc ấy bị kẹt ở Linh Cảm, v.v. . Tôi lén lút nhìn anh, thương xót

Từ đó tiếng gà lạ gáy bên đê lại gợi lên trong trí tôi những liên hệ u uẩn, khổ đau, gợi một nét mặt đẹp dịu dàng, và buồn bã ; cái ngã ba sông nước bốn bề tự dưng liên hệ với nỗi đau âm thầm một đời…”

Dĩ nhiên, đây là cả một câu chuyện đầy tình tiết, tình cảm, tình bạn, tình yêu. Nhưng nhà văn cảm nhận cả khối “u uẩn” đó, vì câu thơ hay và anh đã yêu thích từ trước, thời anh chưa có kinh nghiệm văn học để “mình càng gần gũi lâu một ngôn ngữ, càng thấy nó chất chứa trong mỗi lời, mỗi tiếng lắm điều ngổn ngang. Hãy thư thả, thư thả. Để cho mỗi tiếng từ từ nhả ra hết cái chứa đựng tình cảm của nó” (sđd).

Góc bể chân trời, tuổi xế bảy mươi. Võ Phiến viết như vậy là đã tận tình với văn chương và tận nghĩa với cuộc đời. Nhưng tôi vẫn muốn đi xa hơn nữa với anh. Sở dĩ Võ Phiến “linh cảm” được với tiếng gà Ngã Ba Tam Sa trên sông Phố, là vì bản thân anh, cũng như Huy Cận đã bị tiếng gà ám chướng.

Trong tập tùy bút Thư Nhà (1962), Võ Phiến kể chuyện làng quê Bình Định trong chiến tranh. Năm Thiều, dân vệ xã, bị hạ sát ; người cha là Thập Tam làm phó thôn trưởng nhận thư cảnh cáo, phải lánh vào Sài Gòn, sống nhờ người con gái, “tính ở đây luôn, vì ngán ngoài đó lắm”. Chỉ được vài tháng, vào ngày áp Tết, lại bỏ về quê, vì một tiếng gà trái chứng.

Người con gái kể lời cha, vào khoảng 9 giờ tối :

“Hai ba đêm nay tao nghe con gà nòi nhà phía cuối đường cứ gáy vào giờ này. Sung sức quá rồi đó nghe. Gà của ai đó, phải nói với họ cho “xổ” đi. Xổ là cho gà nó đá nhau qua loa cho bớt sung sức. Nhà tôi cười : ai hơi sức đâu đi tìm chủ gà, ở thành phố này hơi nào để ý… Vậy mà rồi bữa sau, cậu tôi tìm tới ông cụ ở cuối đường làm quen, nói chuyện gà đó !
Vậy là ông cụ “nhớ làng xóm quá rồi…ở chốn thị tứ xe cộ ồn như vầy mà để lỗ tai lắng đón không sót một tiếng gà gáy…”
“Thôi, thế là cuối năm, một người nữa lại quay về, gắn liền vận mệnh mình với số phận làng mạc.”

Thôi thì chuyện cà kê gà ngoé Tết Ất Dậu năm nay nên ngừng lại ở đây, nơi tiếng gà lạc loài, eo ốc, não nùng này.

Thay lời kết

Con gà thường trực trong phong cảnh nông thôn, từ vườn rộng rào thưa, đến ngã ba sông nước bốn bề, sớm trưa, chiều tối ; con gà thân thiết trong tâm cảnh Việt Nam, từ lời ăn tiếng nói hàng ngày cục tác lá chanh, đến bàn thờ ông bà ngày giỗ tết, vào đến văn thơ, tranh pháo ngày Xuân.

Chuyện gà ngày Tết, nói bao nhiêu cũng không hết những ý những tình mà Bàng Bá Lân đã gợi lên trong một câu thơ ngắn gọn :

Tết về nhớ bánh chưng xanh
Nhớ tràng pháo chuột, nhớ tranh Lợn – Gà

Orléans, xuân Ất Dậu 2005
Đặng Tiến

.

Catégories
Hương Quê

Một Góc Huế Xưa

Tôn nữ Thanh Thanh (BP60)

.

Đã ba mươi năm rồi…
Ba mươi năm bao nhiêu đổi thay, ngày nào tóc còn xanh giờ đã ngả màu sương khói… Mùa Xuân, kỷ niệm chợt kéo về khuấy động tâm tư…

Xứ Huế của tôi, như mọi người thường nhận xét, ở gần thì thương, ở xa thì nhớ. Huế tuy nhỏ nhưng có những vùng riêng biệt : hai bên cầu Trường Tiền là hai miệt khác nhau. Một bên cầu có chợ Đông Ba, có Thượng Tứ, có Gia Hội, bên kia cầu là cầu Bạch Hổ, là Phủ Cam, là Đài Phát Thanh, là Đập Đá. Bên kia Đập Đá là Vĩ Dạ, Thuận An, bên ni Đập đá là Chợ Cống, Phú Xuân…

Ngày xưa tôi ở bên ni cầu, bên ni Đập Đá, khu có hai trường trung học nổi tiếng miền Trung là Trường Đồng Khánh và Trường Quốc Học, tôi ở bên ni Đập Đá quẹo phải đi về Chợ Cống. Không hiểu sao lại có cái tên Chợ Cống quê mùa như rứa mặc dù Chợ Cống đã đào tạo ra thật nhiều nhân tài, xấu tốt tùy người, nhưng ít nhất cũng có danh tiếng.

Tướng Tôn Thất Đính, nhạc sĩ Lê Mộng Nguyên đều lớn lên và qua tuổi thanh niên ở Chợ Cống, đạo diễn Lê Mộng Hoàng cũng lớn lên từ Chợ Cống và hiện vẫn còn ở lại quê hương. Các danh ca Ngọc Cẩm, Nguyễn Hữu Thiết cũng trú ngụ ở Chợ Cống khi hai người mới bắt đầu sự nghiệp cầm ca ở Đài Phát Thanh Huế. Đầu năm, tôi kể hầu bạn đọc sinh hoạt Chợ Cống của tôi, biết đâu không mang lại cho quý bạn một vài phút giây mơ mộng của một góc nhỏ xứ Huế giờ tuy còn đây nhưng đã thật xa trong quá khứ.

Tôi lớn lên trong căn nhà của ông nội tôi nằm ven bờ sông Hương nhìn ra Đập Đá, trên con đường Chợ Cống bây giờ được đổi tên là Nguyễn công Trứ – con đường Chợ Cống chạy dài xuống tận Phú Xuân. Đời sống ở cái góc nhỏ xứ Huế này thật khép kín, thật êm đềm nhưng bên trong là cả một trời kỷ niệm tuy đầy sóng gió. Người Huế khép cửa trong nhà nói chuyện hàng xóm. Tuy thầm thì với nhau nhưng… không thiếu chi tiết dù có dặm thêm mắm muối cho câu chuyện đậm đà, gay cấn hơn. Ông nội tôi có bảy người con, hai trai đi kháng chiến trong đó có cha tôi và năm cô con gái. Ngày cha tôi đi, tôi chỉ mới ra đời có mấy tháng, các cô săn sóc tôi… và bao nhiêu chuyện xứ Huế, nhất là ở góc Chợ Cống này các cô đều thầm thì bàn tán, tôi biết chuyện to chuyện nhỏ của góc Chợ Cống từ khi tôi chưa biết nói.

Mà Chợ Cống, Đập Đá của tôi thì thật nhiều chuyện. Người đẹp Chợ Cống thì có nữ ca sĩ Hương Thủy con giáo sư Tôn Thất Lương dạy Hán Văn trường nữ Trung Học Đồng khánh, có Tôn nữ Minh Đức của mối tình đầu thơ ngây với Nhạc sĩ Lê Mộng Nguyên trước khi chàng du học qua Pháp. Xa nhau tình cũng xa luôn, chàng ngưng liên lạc, nàng ở Quê Hương lên xe hoa với chàng sĩ quan trẻ sau này là Trung tướng Lữ Lan… Chuyện một chàng trai khác đi Pháp bỏ lại vị hôn thê là chị của nữ ca sĩ Hương Thủy nhưng cũng có đoạn kết màu hồng. Chàng đi du học, nghe tin chàng mê phồn hoa lấy vợ đầm, cô hôn thê con ông giáo sư nghèo ở đầu Đập Đá xin bạn bè chung góp lấy tiền đi tàu thủy qua Pháp đòi chồng. Nàng qua đến kinh đô ánh sáng thì chàng đã có vợ tóc vàng nhưng con gái Việt ngày đó không có nhiều nên một chàng bác sĩ Việt cưới nàng làm vợ. Họ sống bên nhau hạnh phúc đến ngày hôm nay… Lại còn thêm mối tình của cô tiểu thư trưởng nữ của tiệm vải Thuận Long lớn nhất cố đô Huế với chàng sĩ quan trẻ Tôn Thất Đính. Ngày mới trung úy chàng đi hỏi nàng làm vợ, nàng từ chối để cho chàng có động lực tiến thân, chỉ sau đó vài năm chàng được Tổng thống Ngô đình Diệm cho lên đến Trung tá và được nàng nhận lời làm vợ, cả xứ Huế ồn ào vì cái đám cưới của đôi trai hùng gái sắc vừa có quyền vừa có tiền nhất cố đô. Ngày đó, Trung tá to lắm, xứ Huế nhỏ xíu nên cô tôi kể chàng được đề cử đi làm tư lệnh một đơn vị quân đội ở Đà nẳng và hai vợ chồng được cả xứ Huế tiễn đưa đi làm quan xa.

Ôi cái xóm Đập Đá, chợ Cống của Huế xưa đã cho tuổi thơ của tôi thật nhiều niềm nhớ. Bên ni Đập Đá thì chuyện này, bên kia Đập Đá là Vĩ Dạ lại có chuyện khác… Tôi lớn lên với những chuyện tình của các cô gái đẹp Vĩ Dạ : chị em cô Dạ Khê nước da ngăm ngăm, dáng dấp mảnh mai đã làm cho nhiều chàng phải thức đêm nắn nót thư tình, chị em các cô Trà Mi, Diệm Mi ở Hàng Me một thời là Hoa khôi xứ Huế, bao nhiêu giấy mực đã được xử dụng để ca tụng nhan sắc của những nàng Mi.

Sao anh không về chơi thôn Vĩ
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền

Hàn Mặc Tử khen con gái gốc Vĩ Dạ có khuôn mặt chử điền, riêng tôi lớn lên không học chữ nho nên không biết “chữ điền” có phải là “vuông” hay không mà thấy các chị em cô Dạ Khê khuôn mặt vuông thật với nước da ngăm ngăm, đôi mắt lá dăm và thân hình mềm như cành trúc. Hình như các nàng thôn Vĩ này đã qua định cư ở quận Cam, chị em các cô Mi trắng như trứng gà bóc thì đang ở Pháp. Những người đẹp này bây giờ đã có tuổi, không biết họ có bao giờ thương nhớ cái góc Huế nhỏ xưa của một thời con gái đẹp như thơ ?

Xứ Huế ở miền Trung nghèo đất cầy lên sỏi đá thật nhưng sao đời sống mặn nồng êm ả, một đời sống mà ta không thể nào tìm thấy ở những đất nước văn minh sang giàu, ngay cả những năm tôi ở Saigon cũ cũng không thể nào tìm thấy được. Ngày tôi còn nhỏ, thật nhỏ, tối nào có trăng, mẹ tôi thường cho tôi đi theo bà ra Đập Đá đón những gánh cá tươi do mấy bà gánh từ Thuận An lên Huế bán, những con cá ngừ tươi rói đem về kho với dứa và ớt ăn với bún sao mà ngon tuyệt vời. Còn cái mưa ở Huế thì Nguyễn Bính cũng phải thua :

Giời mưa ở Huế sao buồn thế
Cứ kéo dài ra đến mấy ngày
Thềm cũ nôn nao đàn kiến đói
Giời mờ ngao ngán một loài mây

Trường Tiền vắng ngắt người qua lại
Đập Đá mênh mang bến nước đầy
(Giời mưa ở Huế)

Mưa chừng ba ngày nước sông Hương dâng cao, tràn qua Đập Đá, chúng tôi lại được lội nước, nước tràn vô nhà, bàn ghế chất chồng lên, cả gia đình sống trên cao, chợ búa ngưng họp, chúng tôi lại được ăn cơm nóng với thịt, cá hộp… Bây giờ thấy đồ hộp mà ngao ngán, nhưng những ngày lụt lội bé bỏng xưa kia, cá hộp Maroc xào mặn với tiêu hành nước mắm sao mà ngon thế. Vài ngày sau nước hạ, cô tôi lại đón ghe thuyền đi câu trên sông Hương chạy ngang qua nhà để mua những rổ cá mờm vừa tươi vừa ngọt đem nấu canh với me đất mọc sau vườn. Canh cá mờm tươi, tôm tươi rim với thịt ba chỉ ăn với cơm nóng, chẳng có món ngon nào trên thế giới này bì được… Tuổi thơ ơi, sao mà nhớ quá !

Ngày ba tôi đi kháng chiến, mẹ tôi là cô giáo còn trẻ đẹp. Các cô tôi kể cho tôi nghe ngày đó học sinh trường Quốc Học Huế rất thương ba mẹ tôi. Ba tôi đi, mẹ tôi ở nhà với ba đứa con còn nhỏ. Trong những dịp liên hoan của trường Quốc Học, những nam học sinh thường lên hát tặng mẹ tôi bài “Đợi anh về” của Phạm Duy để an ủi mẹ tôi. Khi tôi biết đọc, tôi thấy trong nhật ký của chị tôi có bài hát đó, bài hát rộn ràng tình yêu Quê Hương của một xứ Huế bừng bừng khí thế kháng chiến chống thực dân.

Đợi anh về
Em ơi đợi anh về
Đợi anh về em nhé
Mưa có rơi dầm dề
Ngày có buồn lê thê
Thì em ơi, em cứ đợi
Đợi anh anh lại về trong tiếng cười ngạo nghễ,
Anh của em lại về…

Thanh niên Huế ngày đó mơ một ngày Quê Hương giải phóng, họ an ủi người cô phụ có chồng đi xa để rồi ngày Huế-Saigon-Hànội thông thương thì người rủ nhau ra biển vượt biên, người khăn gói giã từ vợ con đi tù không hẹn ngày trở lại. Chỉ vài năm sau,vấn đề áo cơm cũng làm cho Mẹ tôi quên ba tôi và đem chúng tôi rời khỏi Huế vào Saigon…

1975 ba tôi trở về không làm sao cười nổi vì gia đình đã tan nát, con thì đứa đi xa, đứa vào trại cải tạo và bỏ xác ngoài Vĩnh Phú xa xôi. Tiếng cười ngạo nghễ chẳng bao giờ vang lên trong căn nhà trống vắng với bàn thờ ông bà nội khói hương nhạt nhòa. Các cô tôi viết thư qua Mỹ kể rằng suốt ngày chỉ nghe cha tôi thở dài như xót xa như hối tiếc… Tôi lại lạc đề mất rồi, tôi đang kể chuyện Đập Đá, Chợ Cống một góc Huế xa xưa cho các bạn nghe trong những ngày đầu Xuân cơ mà !

Cái góc Huế ngày xưa đó đã để lại cho tôi bao nhiêu kỷ niệm êm đềm, đã an ủi tôi thật nhiều trong những ngày xa xứ. Đập Đá cũng là nơi chôn nhau cắt rốn của Bà Thân thị Nhân Đức, vợ của Giáo sư Hoàng Ngọc Thành… Đập Đá của tôi đáng nhớ thật phải không các bạn ?

Gần ba mươi năm xa quê hương, tôi vẫn hằng mơ có một lần được về thăm lại xứ Huế thân yêu. Năm vừa qua, trong chuyến về thăm quê cũ tôi đã đi tàu lửa từ Hànội về lại Huế. Chuyến tàu Thống Nhất rời Hànội lúc 10 giờ đêm và đến Huế vào lúc 12 giờ trưa hôm sau. Chuyến đi khá yên lành, có hạng ghế mềm, ghế cứng, couchette sạch sẽ, không thua Amtrak Mỹ và có phần sạch sẽ hơn TGV (xe lửa tốc hành) của Pháp. Các bữa ăn được nhân viên hỏa xa mặc đồng phục đẩy xe đi phát từng người, thức ăn để trong hộp bao giấy bóng. Lòng tôi nôn nao nghĩ đến giờ phút đặt chân lại nơi chôn nhau cắt rốn. Tôi đi tàu lửa vì thèm nhìn lại nhà ga Huế. Nhà ga Huế để lại cho tôi những kỷ niệm êm đềm với người ông nội già thương yêu.

Ngày tôi học đệ tứ gia đình tôi đổi về Đànẵng, tôi học một năm ở trường Lycée. Vào dịp nghỉ hè tôi đi xe lửa về Huế thăm gia đình ông nội. Tôi đã sống những ngày hè thật vui bên ông và các cô trong căn nhà cạnh bờ sông, các bạn ngày nhỏ của tôi vẫn yên lành sống ở Chợ Cống và đi học trường Đồng Khánh, chỉ có tôi theo gia đình vô Saigon, lên Dalat ở nội trú rồi về Đà nẵng một năm. Về lại Huế tôi thấy mình như nhỏ bé lại trong tình thương của tất cả những người trong xóm Chợ Cống đã biết tôi từ khi mới ra đời cho đến ngày Mẹ tôi đem chị em tôi vô Nam. Cô bạn Giao Cầm ở đầu Đập Đá mỗi lần gặp lại tôi đều trêu chọc. Cô hay hỏi tôi : “Bộ ông nội mi đi làm công chức hay răng mà sáng mô cũng đúng tám giờ là thấy ông vác dù đi ngang nhà, chiều năm giờ vác dù về rứa ?” Hỏi ra mới biết ông nội tôi ngày ngày đi bộ từ Đập Đá lên chùa Tường Vân ở chân núi Ngự Bình để thăm bà cố. Ngày mô ông cũng đi về thật đúng giờ. Ngày nhỏ tôi nghĩ là núi Ngự Bình xa lắm, không biết ông tôi đi bộ bao lâu mới đến Chùa.

Tôi muốn nhìn lại nhà ga Huế vì thăm ông xong khi tôi rời Huế vô lại Đànẵng, tàu rời ga lúc 12 giờ trưa, buổi sáng sớm ông tôi đã xách dù đi bộ lên nhà ga, ông cho tôi tiền đi cyclo nên mười một giờ trưa tôi mới đi. Ông tôi là vậy đó, nuôi con khôn lớn, hai con trai đi kháng chiến lại chăm lo cho các cháu nội ngoại. Vậy mà khi ông tôi mất tôi đã không được có mặt cạnh ông, ba tôi đi kháng chiến về ông cũng không hết buồn vì anh tôi đi cải tạo và tôi thì xa mịt mù.

Chuyến này về thăm Huế tôi muốn nhìn lại nhà ga để nhớ lại bao sự hy sinh và thương mến của ông nội tôi đã dành cho tôi từ ngày tôi còn thơ ấu. Sau ba mươi năm nhà ga Huế đổi khác rất nhiều, rộng rãi và tiện nghi hơn xưa. Tôi gọi cyclo ngã giá về Chợ Cống, người phu xe đòi tám ngàn, chỉ có năm mươi xu Mỹ. Xe đi ngang hai trường Quốc Học, Đồng Khánh rồi Đài Phát Thanh, ngang qua cầu Trường Tiền rồi đến Tòa Khâm mới về Đập Đá và quẹo vào Chợ Cống. Con đường ngày xưa giờ vẫn êm mát, đã tháng chín nên những hàng cây phượng vĩ không còn hoa đỏ và cũng vắng tiếng ve sầu.

Đập Đá của tôi cũng thay đổi nhiều, nhà những người bạn nhỏ ngày xưa đã được thay thế bằng những mini hotels và quán giải khát. Những căn nhà kiểu biệt thự nằm trong hẻm đường Chợ Cống chạy dọc theo bờ sông Hương giờ đã biến thành quán Càphê đèn mờ. Chỉ một cái hẻm nhỏ mà có đến ba quán Càphê, ghế bàn đặt dọc theo bờ sông, buổi chiều vào giờ tan học các học sinh từng cặp đưa nhau đến ngồi tâm tình cho đến khuya. Nam nữ học sinh Huế bây giờ dạn dĩ không thua chi học sinh Mỹ, Pháp, nói chi đến học sinh, sinh viên Saigon ngày xưa. Họ tỏ tình nhau cụ thể chứ không qua lá thư e ấp của “Ngày xưa Hoàng thị” nữa. Huế của tôi giờ cũng như Saigon, Tân Định, cũng quán cóc, cũng hột vịt lộn bày bán khắp nơi, cũng ăn nhậu, các cô gái cũng mặt đồ bộ ra đường như con gái trong Nam.

Một tuần ở Huế với cô tôi, tôi được đưa đi thăm mộ ông bà nội và cha tôi ở chân núi Ngự Bình… Nó không xa như tôi tưởng, từ Chợ Cống đi taxi chừng hai mươi phút đã đến… Mộ ba tôi nằm cạnh mộ ông bà nội, cạnh đó có ngôi mộ của anh tôi được cô tôi ra trại cải tạo Vĩnh Phú hốt cốt về chôn. Ông Bà nội, ba tôi, anh tôi… ba thế hệ một cuộc chiến tương tàn. Ngày trở về sao mà buồn quá !

Từ Chợ Cống tôi cũng kêu cyclo qua chợ Đông Ba, ông phu xe đòi ba ngàn, chưa đầy hai mươi xu Mỹ, tôi lau chau trả giá hai ngàn xong vội vàng nói “Ông ơi, tui quen miệng chứ mấy (bao nhiêu) cũng được”. Tôi nặng có hơn bốn mươi kílô vậy mà lên dốc cầu trường tiền ông phu xe phải xuống đẩy chứ không đạp nổi. Lòng tôi chợt xót xa cho dân Việt thật nhiều. Hai mươi xu, bên Mỹ chẳng mua được gì…

Bảy ngày trôi qua thật mau. Rồi tôi cũng phải rời xóm Chợ Cống, rời xứ Huế của tôi để vào Saigon và đi về Mỹ. Buổi sáng đầu thu đầy nắng vàng cô tôi và các em đưa tôi lên ga… Lần này ra đi không biết khi nào gặp lại, cô tôi đã già, tóc bạc phơ. Nhìn cô tôi nhớ lại không biết bao nhiêu là kỷ niệm. Xứ Huế là cô ngày xưa với dáng dấp mảnh mai và mái tóc dài thật dầy, thật đen, Chợ Cống, Đập Đá là cô với những câu chuyện đầu xóm cuối xóm, là những bát canh cá ngạnh nấu măng chua, canh cá mờm nấu me đất. Cô là tuổi thơ, là dĩ vãng êm đềm…

Tiếng còi tàu vang lên, tôi ngậm ngùi nhìn cô, nhìn xứ Huế thương yêu một lần cuối… Sân ga Huế buổi sáng đầu thu đầy nắng vàng sao mắt tôi rưng rưng lệ…

Ôi ! Nắng vàng sao mà nhớ nhung !
Có ai đàn lẻ để tơ chùng ?
Có ai tiễn biệt nơi xa ấy,
Xui bước chân đây cũng ngại ngùng
(Huy Cận)

.
TTT tự Thanh Vân

.

Catégories
Hương Quê

Giọng nói quê nhà

Nguyễn thị Thanh Xuân


Ta đi ta nhớ quê nhà, Nhớ canh rau muống nhớ cà dầm tương. Á Nam Trần Tuấn Khải đã nói như vậy. Riêng tôi, xa quê hơn ba chục năm có lẻ, trong tôi nỗi nhớ giọng mỗi ngày một đậm. Có một ngày, bất chợt tôi nhận ra nỗi nhớ ấy, bàng hoàng. Một buổi chiều ở Bruxelles, lang thang cùng cô bạn, tôi ngẩn người khi nghe một giọng Quảng Nam. Và chúng tôi đã bỗng dưng tạm quên nỗi háo hức cảnh lạ đường xa, để tìm đến cái gia đình Quảng Nam kia, ngồi trên bộ ván mộc, nghe và nói miên man giọng nói quê nhà.

Giọng nói là cái gì vậy, mà sao ám ảnh ?
Giọng nói là cái đến với ta ngay từ phút đầu tiên ta oe oe chào đời. Khi ấy mắt ta còn nhắm tít, nhưng âm thanh reo mừng đã dội vào tai và in vào bộ nhớ ta. Rồi từng ngày nằm nôi, từng ngày chập chững, mẹ ru, mẹ dạy. Những âm giọng gieo vào tâm thức tinh khôi. Những âm giọng bập bẹ trên vành môi thơ dại. Rồi lớp học, nói và nghe giữa bạn bè, thầy cô. Những âm giọng gắn liền với không gian giao cảm.

Rất nhiều lần tôi tự hỏi, bên cạnh mầm gieo của người, giọng của tôi có chăng chất đất “chưa mưa đã thấm” ? Phải, tôi chừng như nhìn thấy cái cứng cỏi giọng mình từ dải đất núi liền biển. Những âm “a” hẹp lại, những âm “au”, “ong” bẹt ra, những “mô, răng, rứa, hỉ” tạo thành một âm sắc đặc biệt, chân chất như khoai sắn.
Phải, tôi chừng như nghe thấy cái sôi nổi, cởi mở của giọng mình từ vùng văn hóa “ngũ phụng tề phi”. Giọng Quảng Nam nơi những cụ bà dù vang lên nơi chợ búa hay chốn thị thành luôn mang đến cho tôi cảm giác ấm áp tin cậy. Giọng Quảng Nam ở các bậc trí thức trung niên hình như gợi đến những diễn đàn, nơi yêu cầu cái gân guốc của luận thuyết và cái lưu loát của hùng biện. Giọng các bạn trẻ –như sinh viên của tôi giữa giảng đường đông đúc sinh viên của các miền đất nứơc – bao giờ cũng lấp lánh một chút tài hoa, sâu lắng.
Vì vậy, tôi thường có những phản ứng rất buồn cười. Dỏng tai lên khi thoáng nghe giọng Quảng Nam, và hỏi : ở huyện nào ? Cười hì hì sung sướng khi có ai đó hỏi : phải Quảng Nam không ? Cảm thấy không thú lắm khi giữa cái chất giọng mộc mạc đặc trưng Quảng Nam lẫn vào một vài âm sắc lạ.

Có một ngày tôi được xem bộ phim Phố Hoài và rất hồi hộp tự hỏi nhà làm phim sẽ chọn giọng nhân vật thế nào. Rất may, tôi đã hài lòng. Cái chất giọng Hội An ấy sao mà thanh thoát thế. Thanh thoát mà không ẻo lả, hồn nhiên mà không buông tuồng, ấy là chất giọng đẹp của người nữ trẻ Quảng Nam.
Rồi tôi lại vui mất mấy ngày khi tình cờ đọc những truyện ngắn Nhật Bản do Phạm Vũ Thịnh dịch . Cái giọng Quảng Nam vào đây sao mà có duyên hết biết. Độc đáo ngay từ cái tên : thay vì Trong rừng trúc lại dịch Bốn bề bờ bụi. Và bất giác tôi nhớ đến Phan Khôi, Nguyễn Văn Xuân, những người, trong cách viết đã tạo nên một phong cách Quảng Nam hấp dẫn.

Và như vậy, ngẫm kỹ ra, giọng nói quê nhà với tôi, không còn là chất giọng đơn thuần. Đó là âm thanh ruột rà quyện với cái hồn xứ sở được cất lên từ đôi môi của bà con làng xóm tôi.
Ai cũng có quê quán của mình, nhưng không phải ai cũng được sinh ra trên quê cha đất tổ. Chào đời trên quê cha đất tổ, con người sẽ có giọng nói từ cội rễ, và có được niềm ám ảnh khi rời xa quê nhà.

Nhưng ám ảnh để mà làm gì ?
Với tôi, cái ám ảnh ấy là niềm vui. Trong khi tra hỏi về cảm giác ấy, tôi nhận ra hạnh phúc được có cả sau lưng mình một không gian ấp iu thân thuộc và hình như nhờ đó tôi bước đi mạnh mẽ, tự tin hơn giữa cuộc đời rộng lớn. Giọng nói quê nhà, cái nối liền tôi với những người đồng hương của tôi trong bất kỳ không gian nào. Giọng nói quê nhà, một phần quan trọng trong con người tôi, người chọn việc nói và viết như là phương thức nghề nghiệp của riêng mình.
Catégories
Hương Quê

Một bông hồng cho Cha

Võ Hồng

.

Trong thời hồng hoang của lịch sử, con người chỉ biết có mẹ. Khỏi cần tìm hiểu đầu xa, cứ nhìn các con vật thì biết  : gần gũi và hiền lành là con chó, con gà, xa xôi và hung bạo là con beo, con cọp. Sinh ra và lớn lên chỉ biết có mẹ, lúc thúc quanh mẹ. Bởi một lẽ đơn giản : khi biết mình mang thai, con cái thường sống cách ly con đực không cho lại gần.

Con người sau này thì không. Cha săn sóc mẹ khi mẹ mang thai, cha đỡ đần mẹ, cha giúp tay mẹ pha bình sữa, giặt giũ tã lót khi cha mẹ còn nghèo. Khi cùng đầy tháng, cha châm hương đốt đèn thành kính cầu xin Mụ Bà và tham lam cầu khắp thần linh phù hộ cho con mau ăn, chóng lớn. Có lẽ đó là lần đầu tiên, lần trọng đại nhất trong đời mà cha trọn lòng nghĩ đến những vị thần linh. Vì con mà tin, mà khấn, mà cầu… cho dẫu mang tiếng mê tín cũng xin sẵn sàng vui nhận.

Con lên hai tháng, ba tháng, nằm ngửa huơ chân, huơ tay, mở to đôi mắt ngơ ngác, xoay đầu nhìn vu vơ sang trái, sang phải. Rồi con biết hé miệng cười, cái cười vô nghĩa nhưng đủ cho cả nhà mừng rỡ reo vui. Rõ ràng là nụ cười của con làm nở những nụ cười xung quanh, làm rạng rỡ những khuôn mặt, xóa mờ những nếp nhăn nơi trán  : lần lượt biết lật, biết bò… rồi con ngồi vững, rồi vịn tay đứng được, rồi bước những bước rụt rè. Tiếng reo vui, tiếng khuyến khích vang lên rộn ràng làm đầm ấm, trong đó có lẫn tiếng của cha.

Cha được phân công ngồi bón cho con những miếng cơm đầu tiên, cha phải la : “Ùi ùi ! Coi kìa con chuột. Ăn mau chớ nó ăn hết”, rồi thừa lúc con ngơ ngác đưa mắt tìm, cha đút nhanh muỗng cơm vô miệng. Hỡi ơi, từ ngày có con, cha trở thành nhảm nhí đáng thương. Con mới mở miệng ngáp, đôi mắt mới khép hờ mà cha đã vội vàng ru, ru cái kiểu nửa ngâm nửa hát vụng về mà chọn những câu nhảm nhí phù hợp với trạng thái tâm hồn của cha lúc đó :
À ơi, con gà cục tác lá chanh…

Có thể cha giỏi nhạc, cha hát hay nhưng cha ngượng không dám nghiêm trang cất giọng, sợ người khác nghe biết cha đang tràn trề niềm vui, no nê hạnh phúc. Vả chăng mặt con ngây ngô thế đó thì cha biểu diễn nghệ thuật để chi ? Cha phải ngây ngô theo, còn duỗi chân thì cha nói : “Chà ! Bộ định về thăm ngoại hả ?”. Rờ cái đít nung núc thịt, cha bế chạy vừa nói nựng : “À, con heo ú đây. Ai ra mua !”. Quả là những giây phút hân hoan cực độ. Nhưng phải chợt dừng lại. Sợ người khác nghe. Phải che giấu hạnh phúc để tỏ rằng mình không tầm thường. Khi có học, cha thường phải tạo vẻ mặt nghiêm trang. Dưới thời Nho giáo, cha được gọi là nghiêm đường. Hai mươi tuổi đậu cử nhân, đậu tiến sĩ thì phải mang bộ mặt lạnh lùng của một quan hoạn. Chỉ có người cha quê mùa mới thong dong cõng con bốn năm tuổi đi chơi nghêu ngao khắp xóm, bứt lá chuối quấn kèn. Lớn lên, cha con cùng làm lụng cạnh nhau trên sân lúa, giữa rẫy khoa. Xã hội hôm nay trí thức hơn, văn minh hơn, trong cuộc sống cha một nghề, con một nghề, ai lo phần nấy, rốt cuộc tình thương cha con trở nên lợt lạt. Tình quấn quít cha con chỉ thể hiện khi con còn nhỏ ; quá bậc tiểu học, con bắt đầu lớn, bắt đầu chọn bạn là bắt đầu xa cha. Từ đó cha thường chỉ đóng vai người cung cấp tiền cho con ăn học, may sắm, nguồn kinh nghiệm khôn dại để đưa lời chỉ bảo khuyên răng. Tất cả đều chỉ là lý trí lạnh lùng.

Chứ mẹ thì không. Nghĩ đến mẹ là một chuỗi hình ảnh êm ái hiện ra : mẹ đang nặng đẻ đau, mẹ vạch vú cho bú, mẹ bồng ru ngủ, mẹ ôm hôn nựng, mẹ tập đứng, tập đi. Khỏi cần lý luận khỏi nhìn đâu xa, cứ nghĩ đến mẹ là như thấy rõ hồi nhỏ mình nằm như thế nào trong vòng tay mẹ, ỉa đái tự do trên mình mẹ và mẹ lo giặt, lo thay, quen thuộc với mùi khai, mùi thối. Với cha thì phải suy nghĩ mới thấy, bởi mọi sự thương yêu chỉ hiện rõ khi mình còn nhỏ. Bấy giờ nếu may mà biết được là nhờ ngẫu nhiên thấy một người cha nào đó đang thương yêu săn sóc đứa con nhỏ của họ.

Tìm trong văn chương thì thường chỉ gặp loại :

Công cha như núi Thái Sơn

Núi này nhất định là phải lớn lắm và công cha cũng lớn như vậy. Không thấy ghi lại một nét cảm động về người cha mà chỉ phác qua một hình ảnh uy nghi, nhưng xa cách, gợi sự tôn sùng. Mọi người đều thuộc, đều đọc làu làu, nhưng mà thản nhiên như đọc khẩu hiệu.

Người cha quen thuộc, cha của Mẫn Từ Khiên, thì được vẽ ra là một người biết làm bổn phận : bổn phận cưới kế thiếp khi vợ cả chết và bổn phận đuổi kế thiếp đi vì Mẫn Từ Khiên bị ngược đãi. Mà cũng ngẫu nhiên mới biết được con khổ khi thấy con mặc áo rách run rẩy đẩy xe cho mình.

Người cha trong cuốn Luân Lý giáo khoa thư dễ thương hơn.

Truyện kể : Mẹ đi chợ mua về cho con trái cam. Con nghĩ đến cha làm lụng nắng nôi, liền cầm trái cam ra đồng đưa tặng cha. Cha nghĩ đến mẹ đầu tắt mặt tối ở nhà, liền cầm trái cam đem về tặng mẹ. Trái cam đi về một vòng, dài và rộng hơn sợi dây tình cảm con thương cha, rộng khắp ba lần vì thêm tình mẹ thương con, tình chồng thương vợ.

Cổ văn thường nặng nghĩa lớn, nhẹ tình riêng. Phạm Trọng Yêm, tể tướng đời Tống, sai con là Thuần Nhân chở năm trăm thùng thóc về quê. Đến Đan Dương, nhân gặp Thạch Man Khanh là bạn cũ của cha đang bị khốn quẫn vì bị ba cái tang dồn dập. Nhân tặng hết năm trăm thùng thóc. Lại nghé hai cô con gái của Thạch Man Khanh đến tuổi mà đang ế chồng, liền tặng luôn cái thuyền. Về kể lại chuyện cha nghe. Nghe tới chỗ hai cô gái của bạn ế chồng, Phạm Hiền ngắt lời hỏi :

-  Sao con không cho luôn cái thuyền ?

Cuộc sống bắt cha hướng mắt ra ngoài đời, nhìn đời, lăn lộn với đời. Mẹ thì nhìn vào trong nhà, nhìn vuông sân chái bếp, con gà, con chó, cây ổi, cây xoài và bầy con của mẹ. Con gần mẹ hơn cha là vậy. Cha lặng lẽ đi làm kiếm tiền, con đâu biết bao nhiêu gian lao cực nhọc, lo toan đối phó làm mệt mỏi gân cốt và trí óc cha. Về đến nhà tìm sự yên tỉnh, nhiều khi mang cái bực bội, cái cáu gắt từ ngoài xã hội mang về theo. Con phải len lén bỏ ra nhà sau, im lặng, càng xa càng tốt, gần như muốn xóa bỏ cái hiện hữu của mình. Sự cách xa giữa cha con thường bắt đầu nhẹ nhàng như vậy. Càng thêm xa cách bởi sao cạnh mẹ con thấy êm đềm. Ai làm ra tiền không cần biết, chỉ biết muốn nhai viên kẹo, muốn cắn trái ổi là chỉ cần thỏ thẻ với mẹ. Mua cây viết mới, sắm đôi dép mới… thảy thảy mẹ đóng vai bà tiên. Tội thân cha, cạnh bà tiên hiền, cha thành Thiên Lôi ; bà tiên càng hiền, cha càng thành La Sát.

Không, cha không muốn vậy. Cha thương con nhưng cuộc sống phân công, mỗi người mỗi việc. Mẹ như cọng mảnh, nhánh thấp càng gần để trái non xúm xít bâu quanh. Cha như thân vững chắc, bám rễ thật chặc, hút nhựa nuôi hoa, nuôi trái.

Thân chỉa những cành lớn đâm ngang, thân vươn lên những nhánh cao phủ trên đầu che mưa che nắng. Cha cân nhắc lời nói, chỉ nói khi cần, con lớn mẹ thì càng phải nghiêm. Mẹ là tình cảm, cha là lý trí, mẹ lạt lòng cha phải giữ kỷ cương. Mẹ chín bỏ làm mười, cha phải cầm cân nảy mực. Đi vào bước trưởng thành từ mười ba, mười bốn tuổi, con càng ngày càng ngại cha, tránh cha rồi xa cha là vậy.

Nhưng đừng đơn giản, bất công, quên cái thời ta lên năm, lên mười, kẻo trở thành bội bạc. Hãy nhìn những đứa ba tuổi làm nũng với cha. Bắt cha bế chạy nhong nhong. Bắt phải dắt ra cổng đứng nhìn xe cộ. Bắt phải có cha nằm cạnh quạt cho mới chịu ngủ. Lên tám, lên chín thì hay chạy tới nơi cha làm việc để đón cha cùng về. Trên đường đi phải nắm tay cha, thỉnh thoảng nhìn lên mặt cha, dẫu là khuôn mặt tầm thường hay xấu xí.

Tuổi già chiếc bóng, mẹ dễ sống theo con, dâu, rể. Lúc thúc sớm hôm, chăm chút tỉ mỉ, mẹ uốn mình theo nếp sống, mềm mỏng ung dung như nước. thường cha thì không, cha ít cam khuất phục rể, dâu. Chịu sống hắt hiu, thiếu thốn, cốt tránh trước cái giả bộ nặng tai của dâu, cái im lặng cố ý của rể. Mẹ biết ý nên khi phải nhắm mắt vĩnh biệt, mẹ thường thổn thức dặn dò : “Anh ở lại nuôi con. Gắng kiếm một người hiền lành giúp đỡ. Chớ đàn ông không chịu khổ được lâu”.

Phải, tuổi càng cao, khổ càng chồng chất, dâu, rể không ăn hiếp thì có con muỗi, con kiến ăn hiếp thay. Cứ cắn, cứ chích, nạn nhân nghe đau đâu đập đó, chứ mắt mờ đâu còn thấy rõ. Nhìn lên bầu trời đâu còn thấy chòm Bắc đẩu mà mới ngày nào lững thững dắt con đi trong sân cha chỉ cho con nhìn.

Con nay đang tuổi trung niên, bận theo quyền lực, vui với vợ con, bè bạn, việc báo hiếu cho cha thường tỏ ra bủn xỉn. Nếu có ai trách hửng hờ, chễnh mảng thì thiếu chi lý lẽ dẫn ra : “Được vậy còn đòi gì nữa ?…. Trời ơi, thì giờ đâu  !”.

Phải, thì giờ đâu ? Người xưa hay nhắc phận con kíp báo hiếu bởi từ dục dưỡng nhi thân bất đãi, con muốn nuôi mà cha mẹ không chờ.

Khi con ở tuổi trung niên thì cha vào giai đoạn già yếu. Bề ngoài, ngó dẫu phương cương nhưng nội tạng thường đang rệu rã. Dễ hiểu thôi mà, một đồ vật dùng đã sáu chục năm rồi thì dẫu có lạc quan đến đây cũng chỉ có thể tạm nói  : “Cũng còn khá”. Cha thỉnh thoảng cảm thấy hơi đau nơi này, chợt nghe có cái nhéo nơi kia. Đôi hồi bỗng mệt vô cớ. Nhưng cha thường im lặng không nói. Những câu nói không còn cần thiết, êm ái cho con nữa khi con còn nhỏ. Bây giờ, những câu nói đầy quấy rầy con. Đành âm thầm nghĩ đến câu Vạn vật vô thường.

Sách xưa dạy : Hôn định thần tỉnh, ta dịch : “Tối viếng sớm thăm”, lạt lẽo nghèo nàn nếu không có người giảng cụ thể bằng cha mẹ già thường cần đôi mắt và bàn tay con, trước và sau giấc ngủ. Đã nằm trong mùng thì lười đứng dậy để khép bớt cánh cửa, để lấy cái mền, để tìm lọ dầu. Ngủ một đêm sáng dậy, trong mình có gì thay đổi. Đó là lúc con cần hỏi han mẹ cha mới dám giải bày. Gần như mọi người con, cuối cùng đều âm thầm tự trách, lặng lẽ xót xa. Cha biết trước tâm trạng đó, phòng xa ngày nào mình từ trần con mới chợt ân hận muộn màng, nên trong mỗi bức thư gửi con, cha đều kết thúc bằng sự bằng lòng, rằng con đã học hành thành đạt và cha mãn nguyện, cha vui. Lòng vị tha, lòng hy sinh cho con kéo dài mãi sau khi nhắm mắt.

Báo hiếu đâu chỉ món quà, mà có thể đôi tháng gửi một bức thư. Nội dung đâu đòi hỏi cao siêu, chỉ cần mươi dòng lược kể chuyện đã nghe, một điều vừa thấy. Thì cũng như bạn bè bạn gặp nhau, chào nhau một câu rất nhảm mà vẫn rất cần : “Đi đâu đó ? Mạnh giỏi ?”. Sinh nhật cha, tặng một cành hoa. Nếu ở thành phố xa, hai ba đứa gởi về hai, ba bức điện chúc mừng, tốn không bao nhiêu mà tạo được sự rộn ràng tới tấp. Niềm vui tinh thần đâu thua bữa tiệc cao lương ?

Ngày Vu Lan, nhiều chùa tổ chức lễ hội bông hồng cài áo. Hoa hồng tượng trưng cho mẹ. Để tỏ lòng thương nghĩ tới cha, nhiều nơi buộc thêm dải nơ tượng trưng cho cha. Cha còn : nơ xanh. Cha mất : nơ trắng. Lễ đường xếp thành bốn dãy, dãy cha mẹ song toàn, hoa hồng, nơ xanh. Mẹ còn, cha mất : hoa hồng nơ trắng. Mẹ mất, cha còn  : hoa trắng, nơ xanh. Mẹ cha đều mất : hoa trắng, nơ trắng. Người dự lễ đứng theo hoàn cảnh của mình. Có lần, một em nhỏ tuổi chừng lên tám đứng trong hàng hoa trắng nơ trắng. Em nhìn quanh, tủi thân khóc òa và cả lễ đường cùng khóc òa theo. Cha cũng như mẹ, rồi sẽ một ngày : Đỉnh hoa biểu từ khơi bóng hạc (1) nên mỗi người con đều phải vội vàng.

Trả hiếu không bao giờ đủ, không được coi là dư bởi tình cha thương con là cho chứ không phải cho vay để có thể gọi là trả đủ.

(1) Cha mẹ mãn phần (Nhị thập tứ hiếu)

.

Catégories
Hương Quê

Mạ chồng tôi

Phạm thị Anh Nga .


Với tôi mạ không có công ơn mang nặng đẻ đau, nhưng mạ đã thực sự ban cho tôi sự sống : sau khi lần lượt sinh bốn người con gái đầu lòng, lần thứ năm chín tháng cưu mang và “vượt cạn mồ côi một mình” mạ đã sinh ra anh, người sau này sẽ là “một nửa” của đời tôi.

Ban đầu chưa quen, những lúc nhìn thấy mạ thấp thoáng từ xa, tôi rất e ngại trước dáng dấp cao gầy xương xẩu của mạ. Có thể thuở xưa mạ cũng đã có một thời tròn trĩnh, thậm chí mũm mĩm, nhưng không hiểu sao sự gầy ốm của mạ thời đó đã gây cho tôi ấn tượng đáng ngại về một hình ảnh mẹ chồng chua cay nghiệt ngã. Hồi ấy, tình cảm giữa chúng tôi đã bắt đầu thắm thiết và cả hai đều có ý định lâu dài với nhau, và thú thật tôi hơi chùn lòng khi nghĩ đến cảnh mẹ chồng nàng dâu đang có vẻ không lấy gì làm sáng sủa. Rồi dần dà, với những dịp tiếp xúc với mạ ngày càng nhiều, tôi bắt đầu cảm thấy an tâm hơn, thậm chí rất thích cái cười “khoả khoả” đầy bao dung của mạ. May mắn thay cho tôi, mạ là người nhân ái, hiền từ, hết lòng thương yêu con cháu và tràn đầy đức hy sinh.

Cho đến cuối đời, tôi vẫn không sao quên được ngày anh quyết định giới thiệu tôi với mạ. Do những năm khốn khó gạo châu củi quế ấy mạ không ở nhà mà xuống tạm trú ở chỗ mạ đang mở quán giải khát để có đồng ra đồng vào lo cho gia đình, hôm ấy anh hẹn tôi đến nhà anh, và cũng hẹn mạ về nơi ấy gặp tôi. Tôi cảm thấy khá căng thẳng khi ngồi bên anh đợi mạ đến. Vẫn như mọi khi, chuẩn bị đón tôi anh ra hái ở vườn nhà một cành hoa dại, cắm đơn sơ trên bàn. Dường như anh cũng hồi hộp không kém tôi, tay chân cứ luống cuống đến buồn cười. Khi mạ đến, anh báo hiệu cho tôi rồi ra ngoài. Một lúc, anh trở vào, tay cầm một quả thanh trà đã gọt vỏ và cắt sẵn thành bốn phần, nói của mạ mang đến. Anh nói : “Cứ ăn đi, chút nữa bà cụ sẽ ra”. Tôi cầm miếng thanh trà trong tay, không tài nào ăn được. Một lúc sau, mạ từ nhà sau ra và bước vào phòng, ngồi xuống ghế và cười, bảo tôi ăn đi chứ. Và mạ nói những chuyện đâu đâu, toàn chuyện trên trời dưới đất, hoàn toàn không ăn nhập gì đến nội dung cuộc “ra mắt” mà tôi đang sẵn sàng đáp ứng. Mạ nói năng vui vẻ, cởi mở, nhưng vẫn là những chuyện không đâu. Cuối cùng mạ nói : “Thôi hai đứa ngồi chơi hí”. Và mạ đi.

Với tôi, hồi ấy anh vẫn hay nhắc về mạ mình bằng cách gọi là “bà cụ” như thế, mãi cho đến khi ăn hỏi xong, vào một dịp cúng kỵ anh nhắn tôi đến nhà, mạ bảo tôi lạy bàn thờ và bắt đầu xưng “mạ” với tôi, trong khi tôi vẫn e dè đợi đến ngày cưới mới gọi mạ là mạ, thì anh bắt đầu dùng từ “mạ” khi đề cập với tôi về mạ.

Buổi đầu tiếp kiến thế là diễn ra giản dị hơn tôi hình dung rất nhiều, thậm chí phần nào đã khiến tôi ngỡ ngàng. Mạ đi rồi, anh kể cho tôi nghe về mạ, về cuộc đời của mạ từ thuở nhỏ đến lúc lấy chồng, sinh con, và thờ chồng nuôi con khi chú anh mất (con cái các gia đình hoàng tộc vẫn gọi bố mình là “chú”), trong lúc tuổi đời của mạ vẫn còn rất trẻ, anh mới lên mười ba và sau anh vẫn còn hai em nhỏ, một gái và một trai. Kể về mạ, anh xoè bàn tay ra đủ năm ngón trước mặt tôi. Tôi hỏi : “Tuổi của mạ anh hả ?”. Anh cười, lắc đầu : “Không”. Ngập ngừng một lúc, anh tiếp : “Bà cụ là vợ thứ năm của ông”. Và tôi được kể về đời làm vợ của mạ. Mười lăm tuổi mạ lấy chồng. Khi chú của anh, một nhà thầu khoán giàu có đã bốn vợ, tình cờ trông thấy mạ mang cơm đến cho bố đang là thợ nề trong tốp thợ của ông, đã tỏ ý ưng cô gái, thì do gia cảnh rất nghèo và bà ngoại lại mất sớm, mạ đã đồng ý nghe theo lời ông ngoại để lấy người thầu khoán ấy, hầu có thể lo tương lai cho ba em nhỏ của mình. Ở cái tuổi vẫn còn nửa trẻ con nửa người lớn ấy, cô gái quê xinh xẻo mới lớn bắt đầu tập tành làm vợ và làm dâu, và thấm thía nỗi niềm gian truân cay nghiệt của người phụ nữ nghèo gửi phận nhà chồng. Về sau, trong những dịp tâm sự với tôi, mạ kể là chỉ dì tư (vợ thứ tư của chú) mới thương mạ và chịu khó vẽ vời cho mạ trong bước đầu làm dâu, về những công việc bếp núc, nội trợ… Có lẽ điều bù đắp lớn nhất cho mạ, là tình thương yêu của chú dành cho mạ là nhiều hơn cả. Cũng dễ hiểu thôi, mạ là cô vợ út, trẻ nhất, lại xinh đẹp, ngoan hiền, tuy gốc gác quê mùa nhưng khuôn mặt, dáng dấp, phong thái, cốt cách lại vô cùng quý phái. Cho đến cuối đời, dù tuổi già tàn úa và mái tóc thì đã bạc phơ, mạ vẫn giữ được nét đẹp cao sang quyền quý đó.

Tôi về làm dâu mạ khi lòng đã an tâm hơn, và cảm thấy bắt đầu quyến luyến người phụ nữ mà anh yêu thương nhất đời đó. Điều kiện duy nhất anh đặt ra với tôi khi cùng bàn định chuyện cưới xin và sống chung, là bằng mọi cách, tôi không được để bất cứ chuyện gì không hay xảy ra giữa mạ và tôi. Tôi đồng ý. Điểm lại suốt đời tôi làm dâu mạ, tôi đã thực hiện được điều anh yêu cầu, nhưng không chỉ vì anh đã yêu cầu, mà thực sự chính tôi cũng thật lòng thương yêu mạ và mạ cũng đã thương yêu tôi. Tôi nghĩ đến mạ, chăm sóc mạ và ngược lại, mạ cũng quan tâm đến tôi và chăm chút cho tôi. Ngoài anh và hai đứa con của tôi là cái chung dễ nhận thấy giữa mạ và tôi (vừa là máu mủ của mạ vừa là phần đời rất lớn của tôi), dường như vẫn còn một cái gì đó trong vô thức sâu thẳm khiến mạ với tôi đặc biệt thương mến và quyến luyến lẫn nhau. Tôi biết cho đến ngày nay, người phụ nữ anh yêu thương nhất trên đời không phải là tôi, mà vẫn luôn là mạ, nhưng tôi thật tình cảm động và quý trọng tình cảm thiêng liêng đó mà riêng tôi chỉ có thể cảm nhận và chia sẻ một phần ít ỏi, ít nhưng đủ để trở thành hiếm hoi trên đời, giữa hai người phụ nữ đang là mẹ chồng và nàng dâu.

Lần duy nhất tôi khiến mạ phiền lòng, là thời đứa con thứ nhất của chúng tôi đang đi nhà trẻ, và đứa thứ hai thì vẫn còn bú mớm. Buổi sáng, tôi phải cho đứa lớn vệ sinh, ăn sáng, thay đồ và sẵn sàng để anh chở đi học. Sáng hôm đó tôi loay hoay mãi vẫn không tìm ra áo quần để thay cho con. Mạ nói : “Áo quần thì phải lo từ tối qua, sáng ra mới tìm thì làm chi kịp”. Tôi trả lời : “Không phải là con không biết, nhưng tối qua con thức khuya làm việc, mệt quá không thể ráng thêm được nữa nên mới không soạn sẵn áo quần”. Giọng tôi vẫn từ tốn, và mạ không nói gì. Nhưng đến trưa, anh gọi tôi : “Hình như mạ giận em, em tìm cách xin lỗi mạ đi”. Tôi giải thích với anh về những gì đã xảy ra, nhưng vẫn đến xin lỗi mạ. Mạ vui ngay, và sau đó không bao giờ mạ còn nhắc lại câu chuyện đó nữa. Nhưng suốt đời, tôi không quên vết tì nhỏ đã gợn đục một phần trong tình cảm giữa mạ và tôi đó.

Tôi vẫn thường nói đùa với mạ rằng hầu như tôi chưa bao giờ phải làm dâu mạ, chỉ có mạ là hết đợt này đến đợt khác làm dâu tôi. Bởi cứ mỗi một dịp tôi vắng nhà đi công tác xa, hoặc đi thực tập hay học tập ở nước ngoài, mạ vẫn thường thu xếp đến ở với anh và các con tôi để chăm chút miếng ăn giấc ngủ cho con trai và cháu nội của mạ. Thậm chí nhiều lúc tôi vẫn ở nhà, mà mạ cũng đến ở lại, và cứ tranh việc để làm, từ quét tước sân cươi, lấy mạng nhện trên tường, cơm nước, rửa dọn… đến chợ búa, đút cơm cho cháu nội. Lần cuối đi học một năm ở nước ngoài, về đến nhà nhìn thấy những mạng nhện giăng ngang dọc trên tường, tôi hiểu mạ chồng tôi đã thực sự già yếu.

Mạ nấu ăn khéo và ngon, và tôi học được của mạ biết bao nhiêu là kinh nghiệm quý. Thuở còn con gái, tôi thường được mạ tôi bày cho cách chuẩn bị và nấu một số món ăn, không cao lương mỹ vị gì nhưng cũng có thể xoay xở để thay đổi thực đơn hàng ngày. Nhớ ngày xưa ba tôi vẫn thường doạ chị em chúng tôi : “Đàn ông có trăm người thì cả trăm người đều thích ăn ngon, mình mà không biết nấu ăn thì chồng mình sớm muộn cũng theo người khác… biết nấu ăn ngon hơn”. Tôi lấy chồng với vốn liếng có chừng mực đó về việc bếp núc. Mạ chồng tôi đã truyền thêm vốn cho tôi, và điều đáng nói không phải là mạ đã dạy cho tôi cái gì, mà là cái cách mạ truyền dạy cho tôi. Khi ăn cái gì tôi nấu mà thấy ngon, mạ khen rối rít. Ngược lại, ăn mà cảm thấy không vừa miệng, mạ hay giả lơ, đợi khi thuận tiện thì thủ thỉ bày cho tôi thủ thuật để món ăn được ngon hơn. Không như tinh thần câu tục ngữ xưa, “Trước làm nàng dâu, sau mới làm mẹ chồng”, một khi đã là mẹ chồng thì có quyền đổ lên đầu con dâu những gì mình đã phải hứng chịu xưa kia…, với mạ chồng tôi, dẫu một thời đắng cay cảnh mẹ chồng chì chiết, trong ứng xử với tôi mạ hết sức tránh cho tôi mọi mặc cảm là con dâu trước mẹ chồng, và tôi vô cùng biết ơn mạ về lòng cảm thông và sự tinh tế vô chừng đó. Mạ vẫn thường xuýt xoa kể về những thứ tôi chuẩn bị tuy giản đơn nhưng lại hợp ý mạ : soong cá nục hay cá bống thệ kho khô “đậm đà thấm tháp”, hủ dưa giá “mụ làm răng mà để mấy ăn cũng thấy ngon”. Tôi hiểu không phải là tôi thực sự khéo, mà chẳng qua đó chỉ là cách thể hiện tình thương yêu của mạ. Ngày tôi lên bàn mổ lần thứ hai để sinh con (đứa đầu là con gái, cũng đã mổ khi sinh), tôi nói tôi chỉ e ngại rằng đứa con thứ hai của tôi cũng chỉ là con gái, vì sẽ không mang đến cho mạ đứa cháu đích tôn mà mạ mong chờ. Mạ khua tay : “Thôi thôi mụ ơi, tui chỉ mong mẹ tròn con vuông, chơ con gái thì con gái, đẻ con gái nữa thì Trưng Trắc Trưng Nhị, có chị có em”. Tôi vào phòng mổ, ứa nước mắt. May thay, tôi đã sinh cho mạ đứa cháu đích tôn mà càng về sau mạ càng yêu và cưng như trứng. Từ hồi thằng bé còn nhỏ, mạ vẫn thường lén lút cho quà, trong khi tôi xót khi thấy mạ vẫn thiếu thốn lại còn nhiều mối lo toan nên thường ngăn cản. Một hôm con trai tôi (lúc đó khoảng sáu hay tám tuổi gì đó) với vẻ mặt nghiêm trang dặn tôi : “Khi mô mẹ có cháu đích tôn, thì mẹ không được lén con mà cho quà hắn và cho tiền hắn nghe chưa. Con la hắn là mẹ không được bênh hắn nghe chưa”. Tôi phì cười, hiểu ra những bí mật đã và đang xảy ra giữa hai bà cháu…

Mạ chồng tôi không phải là người có học. Một chữ bẻ đôi mạ cũng không biết. Nhưng những lời mạ nói ra thường hay trích dẫn những câu ca dao, tục ngữ, thành ngữ… mà quả thật tôi chẳng hiểu mạ học ở đâu ra và chính tôi cũng chưa biết. Cúng kiếng thì mạ dặn “rộng làm kép, hẹp làm đơn”, là con gái thì mồm miệng phải “bò ho bay không lọt”, và nhớ “miếng trầu làm dâu nhà người”, muốn làm ăn nên nỗi thì cần “có đào có kép”. Nhắc đến những vất vả nhọc nhằn của mạ tôi khi nuôi nấng chăm chút cho con gái tôi, tức cháu nội đầu lòng của mạ, thì “cháu bà nội mà tội bà ngoại”…

Mạ ơi, bài báo cáo tổng kết đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ của con về văn hoá ứng xử qua tục ngữ ca dao vẫn chưa hoàn thành. Lẽ ra con đã phải làm xong trước khi mạ ra đi, để kịp đề tặng mạ khi mạ vẫn còn ở dương thế. Bởi dù mạ không hề hay biết, mạ chính là ngọn nguồn sâu xa đã khơi mớm cho con về cái thâm thuý trong kho tàng thơ văn truyền khẩu của người xưa đó, trong khi bản thân mạ thì chẳng biết i cũng chẳng biết tờ. Và càng nghiền ngẫm những câu tục ngữ ca dao xưa, con càng hiểu thấu cái may mắn của đời con. Bởi những nghiệt ngã xưa mạ từng gánh chịu thì nay mạ đã cố hết sức tránh cho con. Với mạ, không bao giờ là “Thật thà cũng thể lái trâu – Yêu nhau cũng thể nàng dâu mẹ chồng”, “Chăn tằm rồi mới ươm tơ – Làm dâu rồi mới được như mẹ chồng”, “Mẹ chồng không ai nói tốt nàng dâu, nàng dâu đâu có nói tốt mẹ chồng”…

Mạ vẫn mong được sống thêm ít năm nữa để chúng tôi trả bớt những món nợ dồn dập khi xây nhà mới, rồi mới an tâm ra đi vì mạ tin khi đó chúng tôi mới có thể lo toan chuyện hậu sự cho mạ. Nhưng dù mạ đã cố sức, căn bệnh nghiệt ngã đã quật mạ quỵ hẳn và mạ đã vĩnh viễn rời xa chúng tôi.

Mạ ơi, cũng như mạ của con, mạ đã hết lòng và sống với con không hề suy tính nề hà, chẳng hề “khác máu tanh lòng”. Cùng với những người con mà mạ đã rứt ruột đẻ ra, con khóc mạ nhưng không giống như xưa kia “Thương chồng phải khóc mụ gia – Ngẫm tôi với mụ có bà con chi” đâu mạ ạ. Nước mắt nó cứ tự nhiên mà trào ra thôi. Và mạ biết không, cái ảnh thờ của mạ, con đã nhờ phóng to gần bằng ảnh chú và chọn khung ảnh cũng gần giống như của chú. Đoạn tang mạ rồi chúng con sẽ rước mạ lên bàn thờ gia tiên và đặt mạ ở bên cạnh chú. Mạ đừng lo ngại sẽ phải như bà nội ngày xưa mạ nhé. Nếu khi bà nội qua đời, không có ảnh để thờ và ngoài mạ ra không còn ai hương khói cúng quẩy cho bà nội, thì chúng con sẽ tiếp bước mạ lo cúng kỵ bà nội và với mạ chúng con sẽ suốt đời hương khói phụng thờ và sẽ không quên ngày kỵ giỗ.

Mạ chồng tôi đã chọn đúng lúc chúng tôi đang quỳ trước bàn thờ Phật mới thỉnh về nhà và thành tâm cầu an cho mạ, để trút hơi thở cuối cùng ở bệnh viện. Không còn nữa một kiếp gian truân nhọc nhằn, cũng chẳng còn những đớn đau vật vã trên giường bệnh. Vĩnh viễn mạ đã được giải thoát khỏi những hệ luỵ dương trần mà mạ phải nặng nợ cưu mang có thể từ rất nhiều kiếp trước. Khuôn mặt mạ vẫn dịu hiền nhân hậu, dù tấm thân héo khô đã bắt đầu lạnh và cứng lúc chúng tôi tắm rửa, thay quần áo cho mạ để chuẩn bị đưa tiễn mạ đi. Một chuyến đi không có ngày về. Giờ này mạ đã yên nghỉ trên đồi cạnh chú, dưới bóng mát của một cây dương liễu. Một nơi an nghỉ đẹp và êm đềm. Mạ an tâm mạ nhé. Đã có lời kinh Phật dẫn dìu từng bước mạ đi. Nam mô tiếp dẫn đạo sư A di đà Phật…

Cõi vĩnh hằng, mạ ơi, con tin từ nay mạ có thể ngậm cười và vô cùng thanh thản.


Phạm thị Anh Nga
Mùa Vu Lan năm Ất Dậu 8/2005
Catégories
Hương Quê

Em tôi

Phan Nhật Nam

.

Năm em lên ba, bố tôi bỏ lại người vợ trẻ và hai đứa con thơ lên đường tập kết.

Tôi hơn em sáu tuổị Chín tuổi con nhà nghèo khôn lắm, tôi đủ khôn để thấy khuôn mặt mẹ buồn hiu hắt, những tiếng thở dài và những giọt nước mắt âm thầm của mẹ trong đêm. Chín tuổi, tôi đã biết mình là người nam độc nhất trong gia đình, đã biết ẩm bồng đút cơm cho em và vỗ về em mỗi khi em khóc. Chín tuổi, tôi đã biết tắm rửa, thay áo thay quần cho em, cõng em đi chơi và dỗ cho em ngủ. Mỗi ngày, trời sập tối mẹ mới gánh hàng về, ba mẹ con ngôì ăn cơm bên ngọn đèn dầu , tôi và em hỏi han, an ủi mẹ… Mẹ kể cho chúng tôi nghe chuyện chợ búa như đang nói chuyện với người lớn, tôi ngồi nghe, nhìn đôi vai gầy của mẹ, nhìn mái tóc và đôi bàn tay khô của mẹ, mà thấy thương mẹ vô cùng.

Tôi phải bỏ học ở nhà hai năm để trông chừng em. Mẹ có một sạp bán rau cải ở chợ Cồn. Gọi là sạp chứ thực ra chỉ là một ô đất nhỏ, sáng mẹ ra đi thật sớm, lúc trời còn mờ sương, buổi trưa mẹ về nhà lo cho chúng tôi ăn, nằm nghỉ ít phút rồi trở dậy sửa soạn cho chuyến chợ chiều. Một tuần bảy ngày, mẹ đi đi về về trong nỗi cô đơn.

Năm em vừa tròn năm tuổi thì mẹ cho em vào mẫu giáo, tôi cũng trở lại trường, đám bạn cũ của tôi nay đã hơn tôi hai lớp, ngồi xung quanh tôi bây giờ là những khuôn mặt lạ, kém tôi hai, ba tuổi. Tôi là học trò lớn nhất và học khá nên được làm trưởng lớp. Gần cuối năm học lớp nhì, tôi nói với mẹ lên xin thầy Hiệu trưởng cho tôi được thi nhảy tiểu học. Thầy bằng lòng. Tôi cắm cúi học luyện thi và kết qủa là tôi đã đỗ được bằng tiểu học năm đó.

Vào lớp đệ thất trường Trần quốc Tuấn, tôi tiếp tục học ngày, học đêm, năm đệ ngũ tôi thi nhảy một lần nữa lấy bằng Trung học. Ðến niên học đệ tam thì tôi đã bắt kịp đám bạn cũ, tôi hân hoan nhập bầy chung với đám bạn ngày xưa. Ðây là giai đoạn mà tôi cần tiền để mua sách học và may thêm quần áo, thời tiểu học và trung học đệ nhất cấp thì mặc sao cũng được, nhưng bây giờ đã lên đệ nhị cấp rồi, đã bắt đầu biết đỏ mặt khi nhìn những đứa con gái trường nữ, thỉnh thoảng đã biết theo bạn tập uống cafe, phì phà điếu thuốc. Tiền mẹ cho không đủ, tôi bắt đầu công việc kèm trẻ tư gia để kiếm thêm tiền. Học trò của tôi là mấy cô cậu đệ thất đệ lục, nghĩa là cũng chỉ bé thua tôi vài tuổi .

Ba mẹ con tôi vẫn ngày ngày đi về căn nhà nhỏ, căn nhà vẫn không thay đổi một chút nào từ ngày bố bỏ mấy mẹ con để ra đi.

Hết năm đệ tam, tôi nộp đơn thi Tú Tài phần nhất. Tôi đậu bình thứ. Một lần nữa, mọi người ngạc nhiên, nhưng tôi biết sức học của mình, tôi biết mẹ buôn bán tảo tần, tôi thấy những năm tháng gần đây mẹ trở bệnh hoài, mỗi sáng mẹ lục đục dậy thật sớm nấu cơm để dành cho anh em tôi, rồi lặng lẽ mang đôi quang gánh lên vai, những tối ngồi trâm ngâm bên ánh đèn dầu nhìn anh em tôi học bài và những đêm khuya mẹ trở mình húng hắng ho. Tôi thương mẹ và em đến ứa nước mắt, và càng thương mẹ thương em, tôi càng học như điên, như cuồng. Tôi ước gì Bộ Giáo dục cho tôi thi hai bằng tú tài cùng một lúc. Nhìn mái tóc mẹ đã lớm chớm sợi bạc, nhìn lưng mẹ mỗi ngày mỗi như còng xuống, nhìn hai vai gầy của mẹ mà lòng quặn đau, và cứ thế, tôi vùi đầu vào sách vở…

Em đã bắt đầu tuổi lớn, đã bắt đầu tuổi mộng mơ con gái, đã bắt đầu bước vào “tuổi ngọc”, nhưng tội nghiệp, biết nhà mình nghèo, biết mẹ mình buôn thúng bán bưng, biết anh mình vẫn chiều chiều đi kèm trẻ kiếm thêm tiền và cặm cụi học đốt giai đoạn cho chóng thành tài. Biết thế nên em ít khi nào xin mẹ, xin anh tiền may áo mới, hai chiếc áo dài trắng đủ cho em thay đổi. Em lớn lên thiếu tình của bố, nên tôi “quyền huynh thế phụ”. Nhiều lúc nhìn mẹ, nhìn em, tôi vẫn không hiểu tại sao bố lại đành đoạn dứt áo ra đi.

Tôi thi đỗ Tú Tài toàn phần năm 18 tuổi, và ra Huế học Ðại học Văn khoa. Mẹ ở một mình với em ở Ðà nẳng. Mỗi cuối tuần, tôi theo xe đò về thăm mẹ và em, đến sáng thứ hai trở lại trường. Ở Huế, tôi tiếp tục công việc kèm trẻ tư gia. Với số tiền nhỏ nhoi kiếm đuợc, tôi phụ mẹ một ít nuôi em.

Qua sinh nhật thứ 13 của em mấy tháng, một chiều mẹ bỏ buổi chợ, về nhà than nhức đầu, tưởng là cảm nhẹ, mẹ sai em cạo gió và nấu cho mẹ bát cháo hành. Khuya đó mẹ lên cơn sốt, lảm nhảm nói mê, sáng hôm sau em nghỉ học chở mẹ vào nhà thương và nhờ người nhắn tin ra cho tôi ở Huế.

Lật đật trở vào Ðà nẳng bằng chuyến xe đò chót. Trời tối đã lâu, không kịp ăn uống, từ bến xe tôi đi thẳng đến bệnh viện. Trong căn phòng nhỏ, dưới ánh đèn vàng mờ đục, mẹ nằm thiêm thiếp trên giường bệnh, còn em đang ngồi ngủ gà ngủ gật cạnh giường. Ðứng yên lặng nhìn mẹ xanh xao bất động, và khuôn mặt thơ dại của em, trong giấc ngủ hai khoé mắt vẫn còn long lanh giọt lệ, tôi nghe lòng mình quặn thắt .

Ðánh thức em dậy, em ngơ ngác dụi mắt vài giây. Nhận ra tôi, em nhào tới ôm chầm và oà lên khóc, em cho hay là từ lúc đưa mẹ vào đây, mẹ chỉ tỉnh lại một vài phút vào khoảng giữa trưa, sau đó mẹ hôn mê trở lại. Tôi an ủi em, rồi cùng em ra văn phòng bệnh viện. Cô y tá trực cho hay mẹ bị đứt một tỉnh mach ở đầu. Tôi bàng hoàng như bị ai nện một nhát búa vào ngực. Cô y tá bùi ngùi nhìn em, đôi mắt xót xa …

Tối đó, anh em tôi cùng ở lại với mẹ, em mệt mỏi, nên chỉ một thoáng là đã ngủ say. Trong giấc ngủ mệt nhọc, thỉnh thoảng em ú ớ mẹ ơi, mẹ ơi rồi nức lên mấy tiếng. Tôi nghe như dao cắt trong lòng. Suốt đêm không ngủ, tôi cứ ngồi nhìn mẹ nằm im lìm và bên chân mẹ em ngủ chập chờn. Tôi tự nhủ thầm với mình đừng khóc, đừng khóc… nhưng sao nước mắt vẫn cứ trào ra, một tay ve vuốt bàn tay xanh xao của mẹ, một tay nắm lấy bàn tay nhỏ bé của em, tôi để mặc cho hai giòng nước mắt chảy nhạt nhoà trên má.

Mẹ thở hơi cuối cùng lúc năm giờ sáng, mẹ không tỉnh lại để trăn trối với hai con một lời gì. Mẹ đi trong yên lặng. Tôi nắm bàn tay mẹ và thấy tay mẹ lạnh dần. Tôi đánh thức em dậy. Hai anh em hôn lên trán mẹ giã từ. Em vuốt mắt mẹ… Mắt mẹ nhắm hờ. Em ôm chặt hai tay mẹ, ủ vào lòng mình miệng kêu lên nho nhỏ: mẹ ơi, mẹ ơi… Em khóc lặng lẽ, áp mình vào ngực mẹ nước mắt em tuôn ràn rụa làm ướt đẩm cả vạt áo mẹ bạc màu. Những tiếng kêu nghẹn ngào của em như những viên đạn bắn thẳng vào tim, tôi ngồi bất động nhìn mẹ, nhìn em, lòng đau như muối xát. Tội nghiệp mẹ tôi, tội nghiệp em tôi. Em mới mười ba tuổi …

Chôn mẹ xong, tôi bỏ học. Còn lòng dạ nào mà học nữa. Nhưng em thì phải trở lại trường.

Bán đi căn nhà nhỏ xiêu vẹo và gom tóm tất cả vốn liếng của mẹ để lại, tôi đưa hết số tiền cho mẹ của Minh, một người bạn thân tôi. Minh có Hân, cô em gái cùng tuổi, cùng lớp với em. Tôi gửi em đến đó ở và đi học với Hân, cũng may, bố mẹ Minh coi anh em tôi như con. Tôi dặn dò em đủ điều. Số tiền tôi gởi cho mẹ Minh đủ để trả tiền ăn ở của em trong hai ba năm. Tôi còn đưa thêm cho em một ít để em mua sách vở, may áo quần, tiêu vặt. Tôi ôm em và hứa với lòng, hứa với vong hồn mẹ là sẽ lo lắng, sẽ bảo bọc em cho đến trọn đời. Tôi vào trường Võ bị Ðà Lạt năm 20 tuổi, lương sinh viên sĩ quan ít ỏi, tôi tiết kiệm không dám xài nhiều, để dành gởi về cho em mỗi tháng. Tôi dặn em viết thư mỗi tuần kể cho tôi nghe chuyện học hành. Tôi bắt em hứa là không bao giờ dấu tôi một điều gì dù nhỏ bé. Em ngoan ngoãn vâng lời. Mỗi năm tôi được về phép một lần, hai anh em quấn quýt không rời. Tôi đưa em đi thăm mẹ… Chúng tôi lặng yên cầm tay nhau quỳ bên mộ mẹ, nước mắt lưng tròng.

Em lớn lên và ngày càng giống mẹ… Cũng khuôn mặt và cái nhìn nhẫn nhục, cũng đôi mắt xa xăm buồn hiu hắt. Bình thường em rất ít nói, có lẽ không cha, mồ côi mẹ quá sớm và anh lại ở xa đã làm em rụt rè. Cũng may, bên cạnh em vẫn còn có Hân. Lễ mãn khoá của tôi, em và Hân cùng lên tham dự, lúc này, em đã thi đổ vào trường Sư phạm Qui Nhơn, hai năm nửa em sẽ trở thành cô giáo, tôi hãnh diện giới thiệu em và Hân với các bạn mình. Nhìn dáng em thẹn thùng e ấp, tôi thấy lòng mình rạt rào thương em. Tôi thầm gọi mẹ, mẹ ơi, hai con của mẹ đã trưởng thành và đã nên người .

Ra trường, tôi chọn binh chủng nhảy dù, có lẽ cũng chỉ vì tôi thích màu mũ đỏ. Em vào học và ở nội trú trong trường sư phạm. Tôi thấy mình yên tâm hơn. Mỗi tháng, tôi vẫn gửi về cho em một nửa tiền lương lính của mình để trả tiền phòng, tiền ăn. Tôi biết con gái cần nhiều thứ hơn con trai, như áo quần, son phấn… Em vẫn viết thư cho tôi mỗi tuần như em đã làm trong mấy năm qua. Em kể chuyện học hành, chuyện bạn bè, em lo sợ là tôi đi tác chiến nhở có ngày bố con gặp nhau ở chiến trường, làm sao nhận ra nhau, em không nói thêm, nhưng tôi cũng hiểu, tên đạn vô tình, nếu nhỡ….

Hai năm em học Sư Phạm trôi qua thật nhanh. Em bây giờ đã là một cô giáo trẻ. Em được đổi về dạy tại một trường tiểu học gần thị xã Phan Rang. Em thuê nhà chung với hai cô giáo khác. Mỗi ngày ba cô giáo ngồi xe lam đi đến lớp, chiều về cả ba cùng quây quần nấu nướng . Em viết thư cho tôi và khoe có quen với Tuấn, một Sĩ quan Hải quân đồn trú ở Phan rang. Em khen Tuấn hiền lành, ít nóị Em kể thêm là Tuấn chỉ còn có mỗi một mẹ già. Chiến tranh ngày thêm khốc liệt, đơn vị tôi hành quân liên miên, có khi cả năm chúng tôi mới được về hậu cứ một lần. Tôi bị thương hai lần trong cùng một năm. Tôi dấu em, không cho em biết sợ em lo lắng. Trong những tuần lễ nằm bệnh viện và ở hậu cứ dưỡng thương, tôi bắt đầu viết bài đăng trên các báo và tạp chí. Tôi kể lại những trận đụng độ kinh hoàng giữa đơn vị tôi và giặc Cộng, tôi kể lại những “kỳ tích” của bạn tôi, của Mễ, của Lô ….

Sau một lần bị thương nhẹ ở tay, tôi lấy mấy ngày phép ra Phan Rang thăm em. Em mừng rỡ ôm lấy anh, nhưng khi thấy cánh tay băng bột em xót xa bật khóc. Tôi an ủi em là biết đâu sau chuyến bị thương này, tôi sẽ được về làm việc hậu cứ. Ngày hôm sau, nghe tin, Tuấn đến thăm . Thoạt nhìn, tôi đã có cảm tình với Tuấn, đúng như em nói, Tuấn trông rất hiền lành. Trong suốt tuần lể ở Phan rang, em vẫn phải đi dạy, nhưng may là có Tuấn, mỗi ngày Tuấn tới chở tôi đi ăn sáng, trưa Tuấn và tôi lang thang ra chợ bạ gì ăn đó đợi giờ ba cô giáo đi dạy học về. Buổi tối, em đi ngủ sớm, Tuấn ngồi lại nói chuyện với tôi cho tới khuya. Bên ly cafe, tôi kể cho Tuấn nghe chuyện của mình. Những hình ảnh yêu dấu, xót xa như một cuộn phim cũ quay chầm chậm. Tôi rưng rưng kể lại ngày mẹ mất. Tuấn lấy tay chùi mắt, trong đêm tối, tôi thấy mắt Tuấn long lanh …

Bảy ngày phép cũng trôi nhanh. Tôi trở về Saigòn, lòng cảm thấy vui và nhẹ nhàng vì đã có dịp gặp Tuấn. Tôi tin Tuấn sẽ không làm khổ em. Ba tuần sau, tôi nhận được thư Tuấn, trong thư Tuấn kể về gia đình (mặc dù tôi đã nghe em kể trong các lá thư). Tuấn muốn tiến tới với em. Tuấn xin phép được đưa mẹ Tuấn đến gặp tôi. Tuấn hứa là sẽ săn sóc và thương yêu em. Ðọc thư Tuấn tôi ứa nước mắt vì mừng. Mừng cho em may mắn không gặp những trắc trở trên đường tình ái, mừng cho em gặp được một người chồng hiền hậu. Tôi viết thư cho em và Tuấn, bảo hai em lo thế nào cho tiện, chỉ cố làm sao cho giản đơn vì cả hai đứa cùng nghèo . Bốn tháng sau, Tuấn và em làm đám cưới, nhà gái ngoài tôi còn có thêm mấy thằng bạn trong đơn vị, ông hiệu trưởng, thầy cô giáo và rất đông học trò. Nhà trai ngoài mẹ Tuấn, mấy gia đình anh chị họ còn thêm một số bạn bè Hải quân cùng đơn vị… Nhìn em súng sính trong bộ đồ cưới, tươi cười đứng bên cạnh Tuấn, tôi gọi thầm mẹ ơi, mẹ ơi, về đây dự đám cưới của em. Tôi theo đơn vị lội thêm hai năm nữa ở vùng giới tuyến, thì “tai nạn” xảy ra. Trong một lúc nóng giận vì thấy ông xếp của mình sao ngu và bẩn quá, tôi không giữ được lời và đã xúc phạm đến ông, kết quả là tôi bị đưa ra hội đồng kỷ luật và tống ra khỏi binh chủng nhảy dù.

Sau một thời gian ba chìm bảy nổi, tôi đổi về cục Tâm lý Chiến, thời gian này tôi đã khá nổi tiếng, những bút ký chiến trường về Tết Mậu Thân, Bình Long. An Lộc… đã làm vinh danh binh chủng cũ của tôi. Tôi được giải thưởng văn học với bút ký “Mùa hè đỏ lửa”. Tiền thưởng và tiền bán sách tôi gửi hết cho em. Tuấn và em dùng tiền này mua được một căn nhà nhỏ ở ngoại ô Phan rang, gần trường em dạỵ

Mới ngày nào đó còn thẹn thùng nấp bên vai Tuấn mà bây giờ em đã mấy con. Mỗi dịp rảnh rỗi tôi lại ra Phan Rang ở chơi với em, với cháu. Tôi ôm cháu, hôn vào hai má phúng phính, hít vào phổi mùi thơm của trẻ thơ mà thấy lòng mình dịu lại, những cay đắng, cực nhọc của đời theo tiếng cười lanh lãnh dòn tan của cháu mà bay xa, bay xa. Tôi nhìn hai vợ chồng em, nhìn bầy cháu nhỏ lẫm chẫm quây quần bên chân mẹ mà lòng vừa vui mừng vừa hãnh diện. Tôi ao uớc mẹ tôi nhìn thấy được cảnh nàỵ

Biến cố tháng 4/75 tới như một định mệnh oan nghiệt, cả Tuấn và tôi đều phải ra trình diện cải tạo. Em ở lại một mình với một bầy con nhỏ, đứa lớn nhất chưa đầy sáu tuổi và đứa nhỏ nhất còn nằm trong bụng mẹ. Trong trại, tôi cứ đứt ruột nghĩ về em và bầy cháu nhỏ. Mẹ của Tuấn đã quá già, làm sao lo phụ với em đây. Rồi em còn phải lo lắng về số phận chồng, số phận anh. Tôi quay quắt như ngồi trên đống lửa, tôi nghĩ đến lời hứa với vong hồn mẹ hôm nào mà lòng đau như xé, con đã thất hứa với mẹ, mẹ ơi, con đang ở đây tù tội thì làm sao lo được cho em …

Năm 76 tôi bị đưa ra Bắc. Tôi mất liên lạc với em và Tuấn từ tháng 5/75. Làm sao em biết tôi ở đâu mà thư từ thăm gửi. Không biết em có biết Tuấn ở đâu không, trại tù mọc lên như nấm từ Nam ra Bắc. Hồi còn ở trong Nam, từ Trảng lớn, qua Suối máu, đâu đâu tôi cũng cố dò hỏi tin Tuấn nhưng vô hiệu. Tù nhân đông quá…

Trại cải tạo Sơn La, sau đợt cho viết thư về gia đình đầu tiên, ba tháng sau tôi nhận được thư em.Thư em đến tay tôi vào giữa năm 77. Hơn 2 năm 1 tháng tôi mới nhìn lại nét chữ của em. Run run bóc thư, mắt tôi cay nồng, nhạt nhoà. Em cho hay là Tuấn đang cải tạo ở Long Thành, Tuấn có thư về và cho biết vẫn bình an, mẹ Tuấn dạo này yếu lắm vì cụ đã quá già, em vẫn đi dạy, hai cháu nhỏ ở nhà với bà nội, hai cháu lớn theo mẹ vào trường, em cho hay đứa con gái út em đặt tên Tâm, Trần thị Minh Tâm, cháu sinh ngày 12 tháng 9 năm 75, gần 4 tháng sau ngày bố cháu và bác cháu vào tù.

Gần cuối thư, em báo tin là bố còn sống và hồi đầu năm 76 có tìm đến gặp em, làm sao bố tìm ra địa chỉ thì em không biết, nhưng hôm ấy bố đến, bố tự giới thiệu tên mình. Em ngỡ ngàng, ngày bố ra đi em mới tròn ba tuổi, hơn hai mươi năm sau gặp lại làm sao em nhận được , bố xoa đầu đám cháu ngoại đang trố mắt nhìn nguời đàn ông lạ, bố hỏi về anh, về Tuấn, khi em hỏi lại bố là làm sao để biết anh và Tuấn đang bị giam giữ ở trại cải tạo nào, bố lắc đầu không nói gì. Bố cho hay là bố đang có gia đình ở Bắc, ngoài ấy bố có thêm hai trai và hai gái. Ðứa trai lớn nhất thua em bốn tuổị

Bố mang vào cho em hai mươi ký gạo và một chục cam. Bố ở chơi một ngày rồi bố trở về Hà nội. Lúc bố về em có tặng bố cái radio-cassette của anh cho ngày nào. Bố thích lắm, bố hứa sẽ đến thăm anh trong trại tù. Từ hồi trở ra Bắc đến giờ bố chưa liên lạc lại với em, và em cũng không có địa chỉ của bố ở ngoài ấy. Tôi đọc thư lòng thấy phân vân, tôi cũng như em, không hình dung ra nổi bố tôi hình dáng mặt mũi ra sao, hai mươi mấy năm, tôi tưởng bố tôi đã chết.

Tháng 12 năm 77, tại trại cải tạo Sơn La, bố đến thăm tôi .

Ðứng trong văn phòng viên sĩ quan trưởng trại một người đàn ông trung niên, tóc muối tiêu và gương mặt xương. Bộ áo quần dân sự khá thẳng thớm, và sự lễ phép của tên đại úy truởng trại tiết lộ về điạ vị không nhỏ của người này. Thấy tôi vào, viên trưởng trại quay qua nói nhỏ một câu gì đó rồi bước ra ngoài. Tôi im lặng đứng nhìn người đàn ông xa lạ .

Bố đến bắt tay tôi, tự xưng tên mình, bố gọi tôi bằng anh, bố kể là đã gặp em ở Phan Rang, bố hỏi tôi học tập thế nào, bố không hề nhắc đến mẹ, có lẽ ông đã biết về cái chết của mẹ… Bố nói là có đọc văn tôi. Tôi ngồi yên nghe bố nói, sau cùng, bố đứng dậy, móc trong xách ra một gói nhỏ bảo đó là đường và thuốc lá, trao cho tôi, khuyên tôi cố gắng học tập tốt để sớm được khoan hồng. Tôi nhìn vào mắt bố, lòng thấy dững dưng. Tôi bắt tay bố rồi về lại lán mình. Ðó, cuộc hội ngộ của bố con tôi sau hơn hai mươi năm là thế đấy. Chắc cuộc tái ngộ giữa bố với em cũng tẻ nhạt như thế. Có cái gì đó ngăn cách, có cái gì đó phân chia, có cái gì đó tôi không hiểu và không diễn tả được. Bây giờ tôi hiểu vì sao cái tin quan trọng đến thế mà em lại chỉ đề cập một cách ngắn ngủi ở cuối thư.

Lần đó là lần đầu và cũng là lần duy nhất tôi gặp bố trong suốt 13 năm lang thang trong các trại tù biệt giam miền Bắc.

Tháng 12/78, chuyển trại lên Yên Bái, tôi nhận thêm được hai lá thư của em, trong bức thư gần nhất, em viết vào tháng 8/78. Em cho hay tình trạng rất khó khăn, phụ cấp đi dạy không đủ nuôi một mẹ già và bốn con thơ, em đã bán lần mòn hết những đồ trang sức và luôn cả những đồ vật trong nhà. Em vẫn chưa đi thăm nuôi Tuấn được một lần nào. Không thể để bốn cháu nhỏ ở nhà cho bà nội vì cụ bây giờ đã quá yếu, mỗi buổi ăn, Uyên, cháu lớn phải đút cho bà. Ngoài ra, mỗi tối, từ lúc chạng vạng em và Hoàng, hai mẹ con phải ra đầu ngõ, ngồi bán bắp nướng đến khuya để kiếm thêm tiền đong gạo. Em than là dạo này mất ngủ, sức khoẻ yếu lắm, em sợ nhở có mệnh hệ nào …

Tôi thẩn thờ cả buổi vì bức thư em, ngày xưa tôi chỉ lo cho có mỗi mình em, còn bây giờ em phải lo cho bốn đứa con thơ và một mẹ già, kể luôn người chồng và ông anh đang tù tội là bảy, bảy cây thập giá đời đang đè nặng lên đôi vai gầy guộc, nhỏ bé của em. Tôi viết thư về an ủi, khuyên em cố gắng, tôi vỗ về em là có thể Tuấn sẽ được tha về sớm với em, với cháu, vì Tuấn đi hải quân và lon còn thấp, không có tội với cách mạng nhiều. Rồi tôi viết thêm cho em hai ba lá thư nữa mà vẫn không thấy hồi âm. Lòng tôi cồn cào, nóng như lửa đốt, những ngày dài tù tội, tôi không nghĩ đến cái đói, cái khổ của mình mà chỉ nghĩ đến em và mấy cháu, không biết giờ này, em và bốn cháu thơ dại đang có gì ăn ?

Tháng 6/79, một sáng trên đường lên rừng đốn nứa, tôi nghe loáng thoáng câu chuyện giữa các bạn tù. Họ nghe từ các bà vợ đi thăm nuôi kể lại, rằng ở Phan Rang có một chị có chồng đang đi cải tạo, chị chết đi, để lại bốn con thơ, đứa bé nhất mới lên ba, còn đứa lớn nhất chưa đầy chín tuổi. Tội nghiệp, họ hàng nội ngoại không có một ai. Tôi bỗng dưng thấy lạnh toát cả sống lưng, lại gần hỏi thêm thì người bạn tù cho hay là nghe nói chị ấy làm nghề cô giáo, có chồng sĩ quan hải quân đang đi tù cải tạo ở đâu đó trong Nam. Nguời chồng, trung úy hải quân trước cũng đóng ở Phan Rang. Trần Nguyên Tuấn, hải quân trung uý Trần nguyên Tuấn. Tôi thấy đất trời đảo lộn, tôi thấy mặt trời nổ tung trong óc, tôi hụt hơi, miệng há hốc đứng như trời trồng giữa núi rừng Yên Bái, bên cạnh tôi tiếng nguời nói lao xao. Tôi không nghe gì hết, tai tôi lùng bùng, mắt tôi mờ đi, tôi đang nhìn thấy xác em nằm co quắp trên manh chiếu, bốn đứa cháu của tôi, cháu Minh Tâm chưa đầy ba tuổi đang lấy tay lay lay xác mẹ, cháu lớn Thu Uyên chưa đủ chín tuổi đang ôm chân mẹ khóc lóc ủ ê, hai đứa kia, Hoàng và Châu ngơ ngác đứng nhìn. Trời tháng 6 mùa hè Yên bái mà sao tôi thấy thân mình lạnh buốt. Tôi tê dại, tôi hoá đá, tôi không còn cảm xúc, tôi muốn hét lên cho tan vỡ cả vũ trụ này. Trong lung linh màu nắng vàng buổi trưa Yên Bái, tôi thấy bóng em nhập nhoà, chập chờn. Em của tôi, đứa em côi cút của tôi … Mũi súng AK thúc vào cạnh sườn, người vệ binh chắc cũng ngạc nhiên không hiểu sao bỗng dưng tôi đứng như trời trồng giữa lộ… Anh quắc mắt nhìn tôi dò hỏi, tôi không nói gì, im lặng nhập vào dòng tù. Nước mắt chảy dài trên hai má hóp, tôi bước đi như kẻ mộng du…

.