Catégories
BP 2007 à 2019

BP Brie-Comte-Robert 2019 – AG

Coupe de Champagne bien méritée après une AG studieuse
La table est dressée …
Un grand MERCI à chị Yvonne et anh Vĩnh Nhẫn !
Thúy Mai, Roger, Yvonne, Tấn Hảo, Lan Hương
Như Lai, Marie, Như Mai, Hồng Vũ, Thierry, chị Đông, V. Nhẫn, Cécile Hiền, Cao Thắng, Minh Tâm
Le meilleur flan caramel de la région parisienne !

.

Visite de la Propriété Caillebotte après le déjeuner, guidée par Hiền Cécile Mazière

.

.

Catégories
Thầy Đoàn Khắc Trung

Giờ thể thao và Thầy Đoàn Khắc Trung

Hiện nay học thể dục thể thao, ở Mỹ gọi là PE (viết tắt physical education), là một khía cạnh quan trọng của giáo dục học đường. Cứ gần hết mùa hè là bác sĩ nhi khoa chúng tôi cứ phải bận rộn làm “physical”, nghĩa là khám sức khỏe cho các cháu và chứng nhận các cháu đủ sức khỏe để tập thể thao, chơi một môn nào đó. Các cháu bên Mỹ chơi đủ thứ, từ môn giản dị như chạy đua (tract), tennis đến football, hockey, wrestling những thứ mà tôi lờ mờ chẳng biết chơi và luật lệ ra sao. Nhưng cứ khám các em là lại nhớ đến ngày xưa mình học thể thao ở trường.

Bản thân tôi chưa bao giờ giỏi môn thể thao nào cả. Ở tiểu học trường Thanh Long, thấy các trẻ khác chơi ù mọi, đá banh trong sân trường thì cũng thèm lắm nhưng không biết chơi, không dám nhập cuộc. Về những môn như đá banh, bóng bàn, tập tạ thì các anh của tôi rất giỏi nhưng các anh lớn lên hết rồi, không còn ai ở nhà dạy cho mình chơi những thứ ấy nên cái vòng lẫn quẫn, cù lần vẫn cứ cù lần. Đến lúc tôi vào trường Collège Francais de Tourane, tiếng Pháp thì còn sơ sài, lại còn lạ nước lạ cái, chắc tôi cũng có ráng sức ì ạch chạy theo các bạn khác phần đông nhỏ con nhưng lớn tuổi hơn mình trong sân trường rộng lớn. Thầy Brachet vẫn còn thấy ghi trong học bạ : “Assez bien pour son âge , ne doit pas forcer”. Nghĩa là cũng thấy tội nghiệp, nhưng không khuyến khích hoặc cố gắng giúp đỡ.

Đến năm sixième, chúng tôi được học với thầy Đoàn Khắc Trung là thầy éducation physique mới. Tôi không nhớ thầy từ đâu tới, tôi chỉ biết thầy người miền Trung, và trường giao gia đình thầy một căn nhà nhỏ biệt lập, hình như chung quanh có hàng rào cao, xế rạp hát Văn Cầm trên đường Độc Lập, mỗi chiều chuá nhật đi xem xi nê hay đi phố thì đi ngang qua nhà thầy. Thầy thuộc nhóm những giáo sư địa phương có lẽ không có quốc tịch Pháp như các giáo sư khác, hoặc không nói tiếng Pháp giọng chính quốc như Cô Viên dạy Sciences Naturelles. Hồi đó, học trò chúng tôi cũng không ít thì nhiều cảm nhận được rằng có thể có một sự thiệt thòi, phân biệt đối xử đối với những giáo sư Việt nam như thầy trong một môi trường người Pháp. Chúng tôi cũng lờ mờ biết lương các thầy thấp hơn lương các giáo sư từ metropole rất xa, tuy có thể cao các đồng nghiệp trường chương trình Việt, và có thể tiếng nói của thầy, lại là thầy thể thao, trong hội đồng khoa cũng yếu hơn.

Riêng tôi, một đứa học trò , tuy giỏi trong các môn khác, rất kém cỏi và bị bỏ quên trong những môn thể thao. Thầy Trung lại là một trong những vị thầy quan trọng nhất của đời đi học của tôi. Thầy Trung đã khuyến khích đứa học trò “lẹt đẹt” này trong những môn mà tôi có thể khá được. Thầy cổ võ lúc tôi cố gắng đu đưa bám vào sợi dây thừng lể leo cho đến bục trên cao và cho tôi một lời khen làm tôi hãnh diện lúc tôi hòan thành được mục tiêu (tuy hơi chậm). Trong môn nhảy cao và ném tạ, cũng nhờ sự khuyến khích của thầy mà tôi khá hẳn lên, một phần vì tôi cao to hơn một số bạn khác (tuy nặng nề hơn). Những chuyện nhỏ nhặt như vậy giúp cho tôi cảm thấy thích thú hơn khi ra sân giờ education physique và cũng nhờ đó giúp cho tôi có thái độ tự tin hơn trong cuộc sống nói chung. Mấy chục năm sau nhìn lại, tôi tự hỏi lòng ưu ái với một đứa học trò “underdog” như thế có phải chỉ xuất phát từ lòng tận tụy với nghề hay không, hay không ít thì nhiều thầy thông cảm được với kẻ yếu đuối nhờ chính thầy đã trải nghiệm những thiệt thòi trong cuộc sống.

Hồi đó, thi Brevet muốn khỏi bị điểm thể thao dìm thấp điểm các môn khác thì xin bác sĩ chứng cho là mình không đủ sức khoẻ. Tôi được bác sĩ Tôn Thất Hạng, thân phụ BS Tôn Nữ Cẩm Vân dễ dãi chứng là “inapte”. Thế là tôi “thoát”, nhưng tôi đoán Thầy Trung không vui khi biết tôi đào ngũ kiểu đó. Thôi thì “nhân vô thập toàn”. Sau này đi Sài gòn học y khoa, năm năm tôi vẫn viết thơ chúc Tết thầy và thầy luôn luôn lịch sự vui vẻtrả lời đứa học trò xưa còn nhớ đến mình. Đứa học trò này không học được nhiều về đá banh, leo dây, ném tạ, nhưng mấy mươi năm sau, điều mà tôi vẫn ghi nhớ với lòng biết ơn là bài học của sự tự tin, sự cố gắng và nhất là về tác dụng kỳ diệu của lòng tận tụy và những lời khuyến khích của một người thầy giáo trên suốt cả cuộc đời của một đứa học trò.
.

Great Falls, Virginia
Ngày 2 tháng 11 năm 2007
Hồ Văn Hiền

.

Catégories
Livre d’or des réunions

Les premières réunions à Paris

.

Paris, où tout a commencé …

Les premières réunions

La vie sépare. Elle nous sépare, aidée par l’Histoire, fatale et irrémédiable. Et il fallait de la volonté – et des volontés – aux débris naufragés, dérivés un peu partout dans le monde, pour se retrouver.

Les premières retrouvailles à Paris entre vétérans du Collège Français de Tourane — pas encore baptisé Blaise Pascal – se situaient dans les années 1980, en petits groupes, au restaurant, lors du passage d’un ancien prof, d’un(e) ami(e) venu(e) de loin.

La plus importante réunion se déroule en automne 1995, chez Nhu Duong, à Champigny sur Marne, à l’occasion du passage d’une amie, Chi Nga (BP 60), infirmière, venue de Da Nang suivre un stage dans un hôpital parisien. Une opportunité rarissime de revoir une amie, venue du pays pour parler des réalités vécues là-bas, dont elle témoigne en tant qu’infirmière. Retrouvailles émouvantes, parce que nous venions de perdre une amie chère, décédée dans la solitude, à Paris. Nous avons parlé de misère, de séparations, d’amis restés au pays laissés pour compte, de nos jardins délaissés, de nos printemps déprimés, de nos amours abîmées …

Et nous nous sommes promis de nous rencontrer plus souvent, plus régulièrement. De nouveau réunis autour de Chi Nga, à Noël pour lui dire au revoir, nous nous sommes donné rendez vous au printemps 1996 au restaurant Palais de Choisy, et l’année d’après au restaurant Santal sur Mer, une cinquantaine de personnes chaque fois.

Et toujours, entre nous, des repas par petits groupes, au Têt, à la Pentecôte, jusqu’au jour où est née l’Amicale Blaise Pascal…

Dang Tien (BP60)

.

Catégories
Livre d’or des réunions

Bạn và Ta

Paris, Genève, Montréal, San José … bao âm vang đầy kỷ niệm đối với những ai đã từng đến những nơi này họp mặt.
Còn gì vui bằng khi đây đó chớm nở những cuộc hội ngộ lớn nhỏ, như những nhóm lửa hồng bừng lên ở xứ người, cho những đứa con tản mác khắp năm châu quay về đoàn tụ.

Bạn và ta gặp lại nhau sau bao năm xa cách… đôi lúc nhìn nhau ngỡ ngàng vi thời gian làm lu mờ trí nhớ và biến đổi gương mặt người bạn xưa. Nhưng lúc nhận ra nhau thì ôm nhau reo mừng như vừa tìm lại đựơc một khoảnh khắc quý giá của quá khứ xa xôi, mong manh…

Ôi vui làm sao khi nghe bạn nhắc lại chuyện xưa : « Hồi đó, nhớ không… ? » Giá có quên thì cũng chợt nhớ vì người này nhắc đi, người kia nhắc lại, dĩ vãng từ từ hiện về trong ta như một tấm hình ráp khớp, với những gì ta chưa quên và bạn bè còn nhớ.

Nhưng vui hơn nữa là trong những cuộc họp mặt này, bạn và ta chia sẻ với nhau những kỷ niệm mới. Kỷ niệm tuy mới nhưng đậm đà, thâm sâu vì nó bắt nguồn từ những năm thơ dại.
Bạn là một khoảng thời thơ ấu của ta, ta là một thời niên thiếu của bạn. Bạn và ta không chỉ là tình bạn hữu mà còn là tình trường xưa, phố cũ, quê xa….

Trong tương lai, cho dù các cuộc họp mặt có được tổ chức theo kiểu Tây, Tàu, Việt, Mỹ …, tại Bruxelles, Lyon, Washington D.C., Đà Nẵng hay Cancun, quý hóa nhất là bạn bè đến với nhau trong thân tình, mỗi người một tay, đóng góp, xây dựng để ngọn lửa hồng BP nhen nhúm bấy lâu nay, ngày càng lớn mạnh.

Và thật hạnh phúc biết bao nếu cả Bạn và Ta đều tìm được ở những cuộc hội ngộ này, niềm vui vô giá của tình bạn hữu, tình đồng hương, TÌNH NGƯỜI.

.

Hồ thị Minh Tâm (BP71)
Paris 2005

.

.

Catégories
Livre d’or des réunions

Il était une fois…

Il était une fois une école qui s’est appelée …

Collège Français de Tourane
(1955 – 1964)

Lycée Blaise Pascal de Da Nang
(1964 – 1973)

Trung Tâm Giáo Dục Nguyễn Hiền
(1967 – 1975)

– ° – ° – ° – ° – ° – ° – ° –

Son Histoire…

Tout a commencé pendant l’été 1955 lorsque le gouvernement français décida, selon l’esprit de l’accord Bửu Lộc signé avec le gouvernement vietnamien, de fermer le Lycée Français de Hue et de le remplacer par un autre établissement scolaire, destiné aux enfants des familles francophones et francophiles du Centre Vietnam.

C’est à Tourane, dans les locaux de l’ancien hôpital militaire abandonné par l’armée française qu’il fut créé sous le nom de “Collège Français de Tourane”.

Le collège ouvrit ses portes officiellement le 1er octobre 1955 pour environ 350 élèves de la 12ème à la troisième. Les classes secondes et premières furent ajoutées les années suivantes. Pour héberger ceux qui venaient d’assez loin, de Huế par exemple, ou ceux qui ne pouvaient pas rentrer chez eux tous les soirs, il possédait même un internat d’une quarantaine de places.

Dans les années 60, le collège s’agrandit pour accueillir les élèves jusqu’à la terminale. En 1963 il fallut lui trouver un nom. A Molière, surtout célèbre pour ses comédies, ce qui ne faisait peut-être pas assez “sérieux”, le jury préfère Blaise Pascal (1623 – 1662), philosophe auteur des Pensées, mathématicien inventeur de la machine à calculer mécanique et physicien spécialiste de la pression des fluides, considéré comme l’un des grands noms de l’histoire des idées en Occident.

La rentrée scolaire 1964 – 1965 eut donc lieu pour la première fois au Lycée Blaise Pascal. Les élèves de la terminale d’alors (BP63), qui ont voté pour «  Blaise Pascal » au lieu de « Molière », ne se doutent-ils pas encore que les générations suivantes leur en voudront à mort car à chaque Baccalauréat, le risque – prévu par Mme Vigouroux, professeur de philosophie – de sécher sur Blaise Pascal est nettement plus grand que pour Molière !

Il paraît maintenant que ce choix est tout à fait judicieux car, avouez que Pascalien sonne bien mieux que “Molièrien”, “Molièriste” ou “Molièresque”.

En 1967, avec la « vietnamisation » des établissements éducatifs étrangers, le Lycée Blaise Pascal subit de nouveaux changements.
Il cède peu à peu son territoire et ses classes à un Centre d’enseignement vietnamien. Pendant 6 ans les 2 établissements cohabitent, jusqu’en 1973 où le lycée français revêt entièrement sa nouvelle identité vietnamienne et prend le nom de Trung Tâm Giáo Dục Nguyễn Hiền.

LES CHEFS D’ETABLISSEMENT

De sa création jusqu’à sa fermeture, 8 Directeurs, Principaux ou Proviseurs se sont succédés à la tête de l’établissement. Chacun y reconnaîtra le ou les siens.

1955 – 1960 Monsieur G. Mougenel
1960 – 1962 Monsieur J. Descroix
1962 – 1963 Monsieur M. Duplessy
1963 – 1965 Monsieur H.Delcasso
1965 – 1967 Monsieur Trihoreau
1967 – 1969 Monsieur Mazerolle
1969 – 1970 Monsieur Bielmann
1970 – 1973 Monsieur Herveux

– ° – ° – ° –

Voilà, maintenant une page est tournée. Du Lycée Blaise Pascal dont les photos jaunies soigneusement conservées telles des reliques rappellent la splendeur, seuls restent quelques vestiges qui paraissent d’autant plus anachroniques que ceux qui ne sont pas noyés dans la végétation sont maintenant entourés de constructions ultra modernes. Nul n’a oublié le célèbre “petit Pont” qui donnait à bien des anciens la fierté de faire partie « des Grands » lorsqu’ils le traversaient, la chapelle transformée pendant un temps en bibliothèque, le bureau du proviseur, le laboratoire de Physique-Chimie, celui de Biologie, la salle des profs et le logement du concierge. Les autres bâtiments ont été détruits et le nuage de poussière qui s’est certainement élevé dans le ciel bleu de Da Nang lors de leur démolition les a emportés vers le royaume des souvenirs.

Merci au regretté Claude Menguy pour sa documentation et aux Pascaliens (Cúc, Viên, Lộc, Trí, Đức et les autres) pour leurs précieux renseignements.

J. C. Bressieux

.

Catégories
Annuaire des Anciens

A propos…

A Propos …

Il y a quelques années, en fouillant dans des caisses poussiéreuses rapatriées du Viêt Nam et entreposées depuis dans mon grenier, j’ai retrouvé les fiches que je faisais remplir à mes élèves du Lycée Blaise Pascal au début de chaque année scolaire. Un véritable trésor ! En regardant toutes ces photos jaunies par le temps, j’ai éprouvé une intense émotion. Que de souvenirs !

Comme je connaissais les adresses de quelques Pascaliens, j’ai pensé qu’il serait intéressant de les associer à ces photos. Sur le conseil d’une ancienne BP que j’ai eu le grand plaisir de rencontrer à Avignon en Septembre 1996, j’ai commencé à juxtaposer les photos « avant » & « après ». Le répertoire aux visages « passés & présents » est né.

Petit à petit ce répertoire a commencé à s’étoffer, en partie grâce aux données que m’a communiquées Trần văn Nam (BP68) qui, avec patience et persévérance, a établi parallèlement une autre liste de Pascaliens avec leurs coordonnées. Mais jusque-là, mon “annuaire” était très incomplet puisqu’il ne concernait que mes anciens élèves, c’est-à-dire les promotions 1969 à 1975.

Suite à la réunion BP à Paris en juin 2000, j’ai reçu une lettre d’une Pascalienne BP71 me demandant s’il était possible de l’étendre à toutes les promotions, en vue d’une diffusion à l’ensemble des Pascaliens disséminés un peu partout dans le monde.

Ce n’est un secret pour personne, les gens du Sud de la France redoutent tout ce qui est… gros travail ! Mais le sentiment que je ne serais pas seul à assumer une si lourde tâche, m’a incité à accepter sa proposition. C’est ainsi qu’avec « l’Equipe Annuaire », improvisée dans la foulée, nous nous lançâmes dans ce vaste projet qu’est l’annuaire des anciens du Lycée Blaise Pascal de Da Nang, depuis sa création en 1955 (Collège Français de Tourane) jusqu’à sa fermeture en 1975 (Trung Tâm Giáo Dục Nguyễn Hiền). Trois appellations pour un même berceau …

Il ne m’est pas possible de citer les noms de tous ceux qui m’ont aidé en m’envoyant photos et adresses. La liste serait trop longue, mais je tiens à les remercier sincèrement car sans leur contribution, le modeste répertoire d’origine ne serait pas devenu ce beau livret, fruit de la participation de toute la communauté pascalienne.

Je voudrais également remercier toute « l’Equipe Annuaire », qui a fourni un travail remarquable, m’aidant à lancer le projet, à le diffuser sur les Forums Internet BP, m’assistant dans la conception et la production du répertoire.

L’annuaire est loin d’être complet et parfait, mais il a été spécialement réalisé pour vous. J’espère simplement qu’il vous plaira et qu’il continuera à être complété, au fil de vos rencontres et retrouvailles.

Jean-Claude Bressieux

Catégories
Non classé

Liste des Participant(e)s

Mise à jour le 6 mars 2020

|

Nom, Prénom ………………….Promo …….Accompagnant(e) ..Pays .
……………………………….……………………………………..……….
Hong Yao MinhBP73Thanh Hương Hong (Gia Long)USA
Lê Hữu DũngBP74CAN
Trần Việt HưngBP65.. 1USA
Hồ Công BìnhTaberd 65.. 1USA
Pham Hữu MinhTaberd 65.. 1USA
Chu văn HảiTaberd 65.. 1USA
Lữ châu HùngTaberd 65.. 1USA
Nguyễn (Xuân) Hồng HoaBP69USA
Trần Thiện TứTaberd 65Trần Bạch Mai (MC70)USA
Nguyễn Mạnh DũngBP/JJR68Nguyễn B. ThànhUSA
Hồ thị Ngọc DungBP77USA
Nguyễn Marie AngeleBP67Nguyễn VĩnhUSA
Võ Minh NhựtBP73CAN
Hồ thị Thanh ThủyBP71USA
Ngô Khánh VânBP73USA
Ngô Anh ThưUSA
Tôn Nữ Diễm LanBP75USA
Nguyễn Huy TânCFDT63USA
Trần Bạch LanBP72USA
Trương ThắngBP72Hằng TrươngUSA
Hồ thị Minh TâmBP71Roger RenucciFRA
Công H. T. N. Như ĐườngCFDT60FRA
Huỳnh Đỗ Thi HồngBP72USA
Võ Thị MinhBP73CAN
Đồng thị Bích NgọcBP75USA
Đồng thị Bích VânNH77USA
Phan Việt MỹBP75USA
Hoàng JulieBP76Dati MaiUSA
Nguyễn TrungBP74Nguyen Thu MinhUSA
Doan Kim PhuocBP60.. 1USA
Vuong LongBP76USA
Quach Betty PhuongBP75USA
Tran HoaBP75USA
Nguyen Hai ChauBP72Moy NguyenUSA
Quach Le MinhBP72USA
Le van AnhBP72USA
Phan Tan BangBP72USA
Vo Phuong MaiBP72USA
Nguyen Chung QuanBP72USA
Nguyen Thien HaoYersin 76USA
Bao QuaBP72Vu Anh Thu LY76USA
Nguyen Hoang AnhBP72Hoang TienCAN
Dao thi Lien HuongBP72Joseph RothUSA
Catégories
D’ici et d’ailleurs

Dinh Cuong, la source résurgente

Dang Tien (BP60).

A quelqu’un qui me demanda, un jour, de présenter la peinture de Dinh Cuong en un mot, je répondis par une image : c’est une source résurgente. Réplique spontanée qui – au fil des années – s’avère comme une vue d’ensemble justifiée, depuis le processus de la création jusqu’aux œuvres accomplies. Et nous voilà, ensemble, le demi siècle en un clin d’œil.
Résurgence de souvenirs épars, de rêves inavoués, de quêtes intellectuelles angoissées, d’une adolescence tourmentée. Et qui sait, si les formes ne venaient pas de plus loin, d’une Vie Antérieure que le peintre pourrait évoquer, après le poète : « J’ai longtemps habité sous de vastes portiques » ou encore, toujours avec Baudelaire : « J’ai plus de souvenirs que si j’avais mille ans » Source résurgente : eau souterraine à la recherche de lumière ; et chez Dinh Cuong, de sa propre lumière, spécifique à chaque moment de ses peintures. Elle vient à la vie, épousant les aspérités du sol accueillant, alluvial ou volcanique ; ses couleurs nous chantent leur chanson aérienne, lumineuse, rocailleuse ou cristalline. L’art de Dinh Cuong est constitué de ces soleils nocturnes, égarés, qui réclament chacun son aurore et qui donnent à chaque toile autant de ferveur que de nostalgie, avec une lueur fugitive et discrète d’espérance mélancolique. Entendons-nous : l’art en tant que création n’est jamais une naturelle réminiscence, elle exige effort volontaire, travail assidu et recherche perpétuelle. Résurgence ici, veut dire aussi gestation et souffrance, ce qui constitue l’autre face dans l’art de Dinh Cuong. Jeune peintre, en 1963, à la sortie de l’Ecole des Beaux Arts de Huê, il s’oriente déjà vers l’art abstrait et moderne, déclarant à la revue The Gioi Tu Do, (Monde Libre), en 1967, «  Peu à peu, j’abandonne le concept d’objets réels, pour ne garder que la matière pure et spécifique de la peinture à l’huile ».
Il nous livre en même temps sa façon de procéder : « Ma toile débute toujours dans la lumière éclatante, comme une fleur qui explose, pour revenir à sa nuit bleue et noire ; résultat qui n’arrivait pas au début, il est seulement accompli après des longues expérimentations, lieu de convergence du hasard et d’un destin mystérieux ». Confidence précieuse qui ne contredit pas l’image de la source résurgente que j’ai avancée au début ; elle la complète par l’information quant à la réalisation technique, qui est la dernière étape de l’œuvre. L’artiste créateur devient artisan réalisateur. Dinh Cuong polit, lisse, efface, estompe pour renvoyer le clair éclatant à l’ombre artistique qu’il appelle « sa nuit bleu noir ». Mais il ne sort pas du processus général de toute création artistique qui consiste à transmettre les formes du mythos à la lumière du logos, translatant le voyage d’Ulysse à l’espace Euclidien. L’art, quel qu’il soit, évolue de l’obscur à la clarté, et non l’inverse. Louis Aragon a ce vers profond : « De quoi la nuit rêvent les roses ? »
Question étonnante. Trouve-t-elle réponse auprès de la peinture de Dinh Cuong ? Peint-il, par hasard, le rêve des roses, à travers l’imagerie de son imaginaire ?
La peinture de Dinh Cuong, dans son essence, est-elle mémoire d’une rose qui a livré au monde tout son parfum ?
Et l’art du monde serait-il autre chose que le souvenir d’un parfum ? . Dang Tien Pour l’exposition de Dinh Cuong, Galerie Annam Héritage, Paris, du 28/10/2010 au 6/11/2010. .
Catégories
Prose

Dinh Cuong, la source résurgente

Dang Tien (BP60)

.

A quelqu’un qui me demanda, un jour, de présenter la peinture de Dinh Cuong en un mot, je répondis par une image : c’est une source résurgente. Réplique spontanée qui – au fil des années – s’avère comme une vue d’ensemble justifiée, depuis le processus de la création jusqu’aux œuvres accomplies. Et nous voilà, ensemble, le demi siècle en un clin d’œil.
Résurgence de souvenirs épars, de rêves inavoués, de quêtes intellectuelles angoissées, d’une adolescence tourmentée. Et qui sait, si les formes ne venaient pas de plus loin, d’une Vie Antérieure que le peintre pourrait évoquer, après le poète : « J’ai longtemps habité sous de vastes portiques » ou encore, toujours avec Baudelaire : « J’ai plus de souvenirs que si j’avais mille ans »

Source résurgente : eau souterraine à la recherche de lumière ; et chez Dinh Cuong, de sa propre lumière, spécifique à chaque moment de ses peintures. Elle vient à la vie, épousant les aspérités du sol accueillant, alluvial ou volcanique ; ses couleurs nous chantent leur chanson aérienne, lumineuse, rocailleuse ou cristalline. L’art de Dinh Cuong est constitué de ces soleils nocturnes, égarés, qui réclament chacun son aurore et qui donnent à chaque toile autant de ferveur que de nostalgie, avec une lueur fugitive et discrète d’espérance mélancolique.

Entendons-nous : l’art en tant que création n’est jamais une naturelle réminiscence, elle exige effort volontaire, travail assidu et recherche perpétuelle. Résurgence ici, veut dire aussi gestation et souffrance, ce qui constitue l’autre face dans l’art de Dinh Cuong.

Jeune peintre, en 1963, à la sortie de l’Ecole des Beaux Arts de Huê, il s’oriente déjà vers l’art abstrait et moderne, déclarant à la revue The Gioi Tu Do, (Monde Libre), en 1967, «  Peu à peu, j’abandonne le concept d’objets réels, pour ne garder que la matière pure et spécifique de la peinture à l’huile ».
Il nous livre en même temps sa façon de procéder : « Ma toile débute toujours dans la lumière éclatante, comme une fleur qui explose, pour revenir à sa nuit bleue et noire ; résultat qui n’arrivait pas au début, il est seulement accompli après des longues expérimentations, lieu de convergence du hasard et d’un destin mystérieux ».

Confidence précieuse qui ne contredit pas l’image de la source résurgente que j’ai avancée au début ; elle la complète par l’information quant à la réalisation technique, qui est la dernière étape de l’œuvre. L’artiste créateur devient artisan réalisateur. Dinh Cuong polit, lisse, efface, estompe pour renvoyer le clair éclatant à l’ombre artistique qu’il appelle « sa nuit bleu noir ». Mais il ne sort pas du processus général de toute création artistique qui consiste à transmettre les formes du mythos à la lumière du logos, translatant le voyage d’Ulysse à l’espace Euclidien. L’art, quel qu’il soit, évolue de l’obscur à la clarté, et non l’inverse.

Louis Aragon a ce vers profond : « De quoi la nuit rêvent les roses ? »
Question étonnante. Trouve-t-elle réponse auprès de la peinture de Dinh Cuong ? Peint-il, par hasard, le rêve des roses, à travers l’imagerie de son imaginaire ?
La peinture de Dinh Cuong, dans son essence, est-elle mémoire d’une rose qui a livré au monde tout son parfum ?
Et l’art du monde serait-il autre chose que le souvenir d’un parfum ?

.

Dang Tien

Pour l’exposition de Dinh Cuong, Galerie Annam Héritage, Paris, du 28/10/2010 au 6/11/2010.