Catégories
Prose

Ngộ độc do ăn khoai mì (củ sắn,cassava)

Ngày 9 tháng 3 năm 2005,tại đảo Manibi, Phi líp pin, xảy ra một thảm kịch bi đát : 27 trẻ em chết vì ngộ độc do ăn khoai mì, 100 trẻ khác phải nằm nhà thương.

Khoa mì, hoặc củ sắn, tiếng Anh gọi là cassava, tiếng Pháp gọi là le manioc, bột khoai mì bán ở Âu Mỹ gọi là tapioca. Việt nam chúng ta hầu như ai cũng đã từng ăn khoai mì , còn gọi là củ sắn. Cây khoai mì trồng dễ dàng, ngay ở những đất khô cằn và mọc nhanh.. Những người Việt trung niên phần đông ý thức về những độc tính có thể có của khoai mì (củ sắn). Người ta thường biết rằng có loại củ ít độc (loại ngọt, sweet cassava, manioc sucré) có loại độc nhiều (đắng, manioc amer, bitter cassava), tùy cách chế biến có thể thay đổi độc tính, và phần đông đều đã từng nghe nói rằng đàn bà có bầu không nên ăn khoai mì, hoặc bịnh mới hồi phục (convalescence) tránh không nên ăn khoai mì.

Thật vậy chúng ta có lẽ đã quen thuộc với thức ăn dễ trồng , rẻ tiền này qua nhiều thế hệ, nhất là trong những năm thất mùa đói kém, mà hầu như ai cũng “ăn độn dài dài”.Củ sắn có chứa protein, tinh bột, vitamin A, B và C. Cây sắn thật ra phát xuất từ Brazil (Ba Tây), Nam Mỹ, do người Portugal đem về phổ biến kháp thế giới., trở thành món ăn hàng ngày cho chừng năm trăm triệu người ở Châu Phi, Châu Á và Châu Mỹ la tinh.

Ở Mỹ, sản phẩm từ khoai mì mà người Mỹ dùng đến là tapioca, mà tự điển dịch là tinh bột sắn. Tuy nhiên gần đậy, do giao thông trên thế giới càng ngày càng dễ dàng và do các cộng đồng Á châu và La tinh ở Hoa kỳ càng ngày càng đông, chợ bán đồ ăn càng ngày càng bán cassava là củ sắn tươi cho thân chủ thiểu số. Những giới trẻ Việt nam tại Mỹ có thể sẽ có cơ hội ăn các thức ăn làm bằng củ sắn càng ngày càng nhiều, do đó nên cảnh giác hơn về những khả năng ngộ độc để tránh xảy ra trường hợp đáng tiếc như ở Phi líp pin. Trong trường hợp Phi lip pin vừa nói, những trẻ nhỏ trong giờ ra chơi mua và ăn quà vặt bán ngoài đường và chia nhau ăn. Khoai mì các cháu ăn hình như là những miếng khoai mì tươi được chiên dầu và cách nấu ăn này giữ cyanide trong món ăn và gây ngộ độc.

Thật vậy độc tính của củ sắn (khoai mì) là do sự hiện diện một chất đường có cyanide (CN) (cyanoglucoside) tên là linamarin. Qua quá trình tiêu hóa, cyanoglucoside thải ra hydrogen cyanide (HCN) gây ngộ độc.Chỉ cần 0.5 đến 3 milligram cyanide cho mỗi ki lô cân nặng là có thể chết người (lethal dose : 0.5-3mg/kg of body weight). Bởi vậy một đứa trẻ chừng 20 pound ăn 100 gram củ sắn có chứa 5milligram cyanide là có thể chết được. Cyanide trong hai củ sắn đủ để làm chết người lớn.

Đáng để ý là sự hiện diện trong mủ củ sắn (plant latex) có những enzymes bẻ gảy nối giữa cyanide và đường , nghĩa là đem yếu tố độc cyanide ra khỏi linamarin. Ví dụ , nếu đem củ sắn ra bào (tức là làm sắn vỡ nát ra)(grating), ngâm nước ấm vài ngày thì linamarin sẽ được chia ra thành hai phần, phần khí có cyanide được bay đi và phần dường không độc còn lại ăn được. Cũng tương tự như vậy, những cách chế biến khác nhau như nướng (Tây Phi), cắt từng miếng nhỏ, phơi nắng một ngày, ủ bằng lá chuối bốn ngày, đem ra gọt các chất mốc, xong lại phơi nắng (sun drying and heap fermentation ở Ouganda) có thể cho những kết quả khàc nhau về nồng độ cyanide trong thức ăn, nhưng nói chung mất cả tuần.

Trong những xứ nghèo ở Châu Phi, người ta đang phổ biến một phương pháp đơn giản và nhanh chóng được mô tả trong tài liệu của tổ chức Lương Nông Liên Hiệp Quốc (FAO). Khoai mì được đem ra bào nát , xong ngâm nước bốn tiếng đồng hồ, dùng lá làm phểu nhét cho khoai mì vắt nước có chất độc bỏ đi, xong đem phơi nắng, tất cả chỉ thực hiện trong vòng một ngày là có bột củ khoai mì (sắn ) ăn được. Theo tài liệu của Cơ quan Kiểm tra Thực Phẩm Canada, loại sắn ngọt (cassava doux) có dưới 50mg cyanide trong 1 kilô sắn tươi, nếu được nấu chin thì có thể hạ chất cyanide xuống mức xem như là an toàn.Trái lại, lọai sắn đắng (cassava amer) có cyanide nhiều hơn, cần phải bào (raper/grate), ngâm nước lâu để nhả các chất độc bớt lại. Thực tế đối với người ở Mỹ, có lẻ chúng ta nên nấu khoai mì cho kỷ , bỏ nước luộc khoai, không ăn khoai mì đắng và chỉ ăn ít cho vui thôi, nhất là đàn bà có bầu và trẻ em nên tránh nếu không chắc chắn an toàn.

Ở Châu Phi, ngộ độc cấp tính do củ sắn được gọi là Konzo (tiếng Zaire có nghĩa là “cột chân”/tied legs), người bịnh bị liệt hai chân và không chữa được, do ngộ độc cyanide.Những triệu chứng khác là mắt mờ (blurred vision), điếc tai , yếu , đi đứng khó khăn. Những người bịnh bị ngộ độc liều thấp hơn , mản tính gọi là bịnh thần kinh mất thăng bằng nhiệt đới (Tropical Ataxic Neuropathy).

Chúng tôi xin thu nhặt những dữ kiện trên để người Việt, nhất là người Việt từng xa xứ lâu ngày, ý thức về những biến chứng ngộ độc có thể xảy . Càng ngày chúng ta càng tìm đến những món ăn “đặc sản’ từ VN như khoai mì (củ sắn, cassava), măng tre tươi (cũng chứa cyanide, cần luộc chin mới ăn được), nấm, hoặc những món lạ hơn.Chúng ta phải biết chế biến nấu ăn, đúng cách và dùng có giới hạn vì như bài học các trẻ em Philippines, những món ăn truyền thống, đầy tính cách quê hương (đối với dân Phi hoặc VN ) đôi ghi vẫn gây tai nạn như thường.

Hồ văn Hiền
Great Falls , ngày 10 tháng 3 năm 2005
Catégories
Prose

Trường Blaise Pascal cũ và Thành Điện Hải xưa

Hồ văn Hiền (BP65)

.
Nhân tìm hiểu về quá khứ địa điểm trường Blaise Pascal, tôi tìm gặp được một số tài liệu liên hệ tới Đà nẵng và khu đất tạI góc đường Độc Lập (nay là đường Trần Phú) và Quang Trung, trước mặt cercle sportif cũ, mà bây giờ trên bản đồ thành phố cũng ghi là trung tâm thể dục thể thao.

Điểm thứ nhất làm tôi thắc mắc trước đây là cái tên Tourane, nghe có vẻ Tây, của Đà nẵng. Chúng ta biết thị trấn này đã là một đồn lũy lâu đời của Việt nam dưới Chúa Nguyễn và triều Nguyễn. Cách đây mấy năm, trong một bài báo về Đà nẵng, học giả Thái Văn Kiểm có giải thích nguồn gốc tên này như sau : “Nguyên địa phương có tên là Thạch Giản, viết bằng chữ Hán hoặc nôm na ná giống chữ Tu Giản. Những người thông ngôn cho Pháp hồi đó, đọc lộn thành Tu Giản, và do đó người Pháp đọc trại là Tourane. Theo Đặng Tiến (BP 61), sách Lịch sử Thành Phố Đà Nẵng,( của nhiều tác giả , Nhà Xuất Bản Đà Nẵng, 2001, trang 30) cũng nói trường Blaise Pascal nằm trên địa diểm cũ của thành Điện Hải.

Thắc mắc thứ hai là kiểu thành lũy Vauban mà chúng ta thấy trong trường cũ của chúng ta. Từ cửa chính, hướng đông, đi vào, chúng ta qua chiếc cầu nhỏ bắt qua một cái hào lớn, bên phải có nhà Ông Menguy. Rẻ qua phải, có nhà thờ nhỏ cất trên một mặt bằng cao, nằm trên một góc thành. Nhà thờ nhỏ (chapelle) này là nhà nguyện đầu tiên cho quân đội Pháp (nhà thờ Con Gà chỉ được xây năm 1923, thuộc giáo phận Quy Nhơn – theo Đặng Tiên). Từ trên nhà nguyện nhìn xuống môt bức tường gạch thì thấy sân vận động của chúng ta hồi đó, có kiến trúc bằng sắt (xây sau 1957), như cái cầu khỉ để leo dây, đi thăng bằng, vv… và có cái phòng thay áo quần cho học sinh tập thể dục (vestiaire), không phân chia ra nam nữ vì hồi đó thể dục trai gái học riêng. Rẽ qua trái thì hồi đó có nhà château d’eau và ngôi nhà nhỏ các nữ sinh nội trú ở, ngay trên góc thành phía nam.

Như vậy, thành quách trong trường chúng ta mà nay ta trở lại gọi bằng tên lịch sữ là thành Điện Hải, xây theo kiểu Vauban, tương tự như Hoàng Thành ở Huế. Tại sao, ngay cả trước khi Trung tướng Rigault de Genouilly đến Đà Nẵng ngày 31 tháng 8 năm 1857, và sau đó tấn công cửa biển này của Việt nam chúng ta lại có những thành lũy như thành Đà Nẵng xây theo lối Tây phương ?

Một số dữ kiện và phân tích mới đây của Frederic Mantienne trong bài báo “The Transfer of Western Military Technology to Vietnam in the Late 18th and 19th Centuries : the Case of the Nguyens”, được đài BBC Việt ngữ trích dẫn trong một bài viết dài giới thiệu về kỹ thuật xây thành đắp lũy và tàu chiến của Việt nam thời Vua Chúa nhà Nguyễn.

Nhờ những người Pháp hậu thuẫn cho Nguyễn Ánh trong thời gian chống Tây Sơn cuối thế kỷ thứ 18, một số kỹ thuật về quân sự như xây đồn lũy, sữ dụng tàu chiến dùng hơi nước, súng đạn theo lối tây phương đã được truyền (transferred) lại cho giới lãnh đạo nhà Nguyễn và đóng vai trò đáng kể trong sự đánh bại Tây sơn. Sau này, trong thời kỳ xây dựng phòng thủ sau khi Gia Long lên ngôi (1802), các thành lũy Việt nam thường được xây theo lối Vauban , nổi tiếng nhất là thành Huế, và hàng loạt các thành khác từ nam chí bắc. Đáng chú ý hơn nữa là những thành xây từ đời Minh Mạng (sau 1822), lúc mà các chuyên gia người Pháp ở Việt nam không còn bao nhiêu, Việt nam có biến cải kiến trúc Vauban để phù hợp với sở thích địa phương và cũng theo các tiến bộ về võ khí chiến thuật tại Âu Châu. (Vauban : thống chế Pháp (1633-1707), tên là Sébastien le Prestre de Vauban, là Commissaire Général des Fortifications và là người phụ trách phòng thủ nhiều thành lũy biên giới Pháp và chỉ huy nhiều cuộc bao vây phong toả (sìeges) thành phố Lille, Namur… dướI thời Louis XIV. Theo Le Petit Larousse.) Thành Huế khởi đắp năm 1805, lúc đầu bằng đất, đến năm 1818 mới xây gạch cho đến năm 1824 mới hoàn tất. Chu vi gần 10 km, mỗi mặt dài chừng 2.5km. Thành cao 6m, rộng 20m, hào rộng 22.8m, sâu 4m (theo Thái Văn Kiểm, Cố Đô Huế, 1960).

Thành trì nằm trong khu vực trường Lycée Blaise Pascal cũ là thành Điện Hải được xây vào năm 1823 .Theo Đặng Tiến, Pháo đài hoặc Đồn Điện Hải nhỏ hơn và gần biển hơn, được xây năm 1913 dưới thới Gia Long, dưới quyền điều khiển của Tả Quân Nguyễn Văn Thành (1757-1817). Vậy có lẽ sau này (1823) đồn dược dời về một vị trí cao hơn ( tại vị trí Trường Blaise Pascal) và xây dựng qui mô hơn dưới sự điều khiển của ngườI khác, sau khi Nguyễn văn Thành đã mất . Chu vi Thành Điện Hải chừng 1/5 thành Huế, thành chỉ thấp hơn ở Huế một mét và hào cũng nông hơn một mét, công trình đáng ngạc nhiên vì Huế là kinh đô thời đó và Đà Nẵng ít quan trọng hơn nhiều. Theo Danang City News thì Bảo Tàng Viện Đà nẵng đã chi một tỹ đồng VN (tháng 9 năm 2004) để đào lên và sửa sang những bức thành phía Bắc và Nam của Thành Điện HảI và cũng ghi là thành xây vào năm thứ ba Triều Minh Mạng (1823).

Theo Việt sử Toàn Thư của Phạm văn Sơn thì ngày 01 tháng 9 năm 1857, Pháp gởi tối hậu thư cho Việt nam đòi phải nộp hết cả đồn ải. ”Quá thời hạn, Pháp nổ súng, Việt nam chống lại, nhưng nửa giờ sau ngừng bắn. Chỉ hai hôm, cửa Đông và cửa Tây thành Đà Nẵng bị phá hủy. Quân Pháp vào chiếm đóng.” ( Hiện nay tường Đông, tức là phía đường Độc lập củ, nay là đường Trần Phú, nhìn về bờ sông Hàn, và tường Tây còn nguyên vẹn, chắc sau trận này Việt nam đã xây lại). Sau đó vua ta gởi Nguyễn Tri Phương (1799-1873) lập đồn Liên Trì, đắp lũy dài từ Hải Châu đến Phước Ninh, Thạch Giản, chặn bước tiến người Pháp. Tướng Genouilly thấy đánh Đà nẵng không thuận lợi nên rút lui. Sau này (1860) Pháp đổi hướng, đốt đồn trại tại Trà Sơn và rút về Gia Định. Cũng năm 1860, Nguyễn Tri Phương được đổi vào Gia Định và đề cử Phan Thanh Giản và Nguyễn Bá Nghi thay mình trông nom việc quân thứ ở Quảng Nam. (Theo Trịnh văn Thanh, Thành Ngữ Điển Tích Danh Nhân Tự Điển)

Như vậy, địa điểm trường Blaise Pascal, một trường học của Pháp cho học sinh Việt nam, đã từng giữ một vai trò lịch sữ trong bang giao Pháp Việt và đã gắn liền với tên tuổi của những anh hùng như Nguyễn Tri Phương và Phan Thanh Giản. Để tóm tắt, xin trích đoạn sau từ website của Thành phố Đà nẵng.
“Thành Điện Hải trước là đồn Điện Hải, xây dựng năm 1813 (Gia Long thứ 12) gần cửa biển Đà Nẵng. Năm 1823 (Minh Mạng thứ 4) cho dời đồn Điện Hải vào bên trong đất liền, trên một gò đất cao. Đồn được xây bằng gạch. Năm 1835 (Minh Mạng thứ 15) đồn đổi tên là Thành Điện Hải. Năm 1840, Tham tri Bộ công Nguyễn Công Trứ vào xem xét hệ thống phòng thủ ở Đà Nẵng, sau đó có đề nghị tăng cường phòng thủ các thành Điện Hải, An Hải. Năm 1847 (Thiệu Trị thứ 7), thành Điện Hải được mở rộng có chu vi 556m, thành cao hơn 5m, chung quanh là hào sâu 3m. Thành có 2 cửa, một cửa mở về phía Nam (cửa chính), một cửa mở về phía Đông. Trong thành có hành cung, có kỳ đài, các cơ sở chứa lương thực, đạn dược, thuốc súng và được trang bị 30 ụ súng đại bác cỡ lớn. Thành xây bằng gạch theo đề án thiết kế kiểu Vauban, hình vuông. Hiện nay, di tích thành Điện Hải tọa lạc tại phường Thạch Thang, quận Hải Châu. Tường thành phía Tây, Đông và các góc tương đối còn nguyên vẹn. Cửa thành phía Nam đã mất và phía Bắc đã hư hại. Gần đây, di tích thành Điện Hải được trùng tu, gia cố, phục hồi lại nguyên trạng….

Một tượng đài uy nghi của Tướng quân Nguyễn Tri Phương đã được dựng tại đây, để ghi nhớ một giai đoạn lịch sử hào hùng của thành phố. Thành Điện Hải đã được Bộ Văn hóa – Thông tin xếp hạng là di tích lịch sử quốc gia ngày 16.11.1988, được gắn bia di tích ngày 25.8.1998. (dananggov.vn)”

Hồ Văn Hiền (BP65)
Ngày 28 tháng 2, năm 2004
(cập nhật ngày 3 tháng 4 năm 2005)

Catégories
Prose

Les étudiants vietnamiens en France

Bạch Thái Hà

.
La France accueille chaque année plus de 200 000 étudiants étrangers, 245 000 étudiants de nationalité étrangère inscrits en 2002-2003, soit 10,9% du total (1). Selon la revue trimestrielle Bèo (2) éditée à Paris, pour la rentrée d’Octobre 2004, 4 800 étudiants vietnamiens fréquenteront les établissements d’enseignement supérieur et de centre de recherche de renommée internationale : plus de 3000 établissements dont 90 universités, 240 écoles d’ingénieur, 230 écoles de commerce et 2000 établissements (écoles d’art, d’architecture, d’études paramédicales…).

Avant d’entrer dans les universités, ces étudiants passent un test de connaissance de langue française (TCF) équivalent au TOEFL anglais, ils peuvent préparer ce test au Viet Nam. Sinon ils doivent passer le DELF (Diplôme d’Etudes en Langue Française) et le DALF (Diplôme Approfondi en Langue Française), diplômes officiels de Français Langue Etrangère (FLE) pour pouvoir accéder aux études supérieures.

La plupart des étudiants vietnamiens résident en Ile de France (2000), viennent ensuite Grenoble (500), Lyon (400), Aix-Marseille (400), Toulouse (300). Les lauréats 2004 pour une bourse pleine (DEA-DESS-Master), pour une bourse à coûts partagés (DEA-DESS-Masters) ou pour une bourse de Doctorat sont affichés sur le site internet de l’Ambassade de France (3). Ceux-ci bien informés et orientés, s’inscrivent sans difficulté dans les écoles de leur choix et peuvent bénéficier tout de suite des prestations sociales réservées aux étudiants étrangers.

Cependant la plupart, au nombre de 2 221 selon l’Ambassade de France à Hanoï poursuivent leurs études en France avec un bagage de français très rudimentaire qui ne dépasse pas le niveau de 6è d’un élève français de 11 ans. Le Viet Nam n’est plus un pays francophone depuis longtemps bien que la France ait fait un effort encourageant pour faire revenir le Viet Nam dans l’espace francophone. Il suffit de constater les 2 milliards de dollars envoyés par la diaspora vietnamienne chaque année pour aider la famille. La grande majorité des envois proviennent des Vietnamiens résidant aux Etats-Unis. La France occupe plutôt une place de conseil juridique, de high-tech, de conservation des sites archéologiques et historiques et de l’élaboration d’infrastructure.

Dès leur arrivée en France, certains étudiants étalent leur drapeau rouge à étoile jaune pour une pause de souvenir à Nancy (4) comme s’ils allaient en compétition pour décrocher une médaille quelconque !

Ces étudiants ont une connaissance très vague de la société française, ils ignorent ce qu’est la démarche pour avoir une carte de séjour ‘étudiant’, la sécurité sociale, les assurances, la location ou la co-location d’un logement et les transports. Ils ne savent pas que les frais d’ inscription dans un établissement (environ 250 € par an) est le moins cher du monde alors que la France doit dépenser environ 7 000 € par an pour former un étudiant.

Leur séjour en France est vraiment un parcours du combattant. Comme ils parlent mal le français, ils se tournent vers leurs compatriotes fraîchement arrivés et ils se trouvent dans un cercle vicieux. Les uns sont exploités par d’autres vietnamiens sans scrupules pour avoir un certificat d’hébergement, s’inscrire dans une école, trouver un logement (un studio de 15 m2 pour 4 personnes !). Les autres se font arnaquer par une agence fantôme en lui remettant 5 000 € croyant qu’elle s’occupait tout à la fois le loger, le manger et les études.

La revue Bèo qui prétend aider les étudiants à intégrer dans la société française afin de tirer le maximum de l’enseignement enrichissant n’est pas à la hauteur de sa tâche. Les traductions de quelques mots français en vietnamien sont erronés et des fois incompréhensibles.

Quelles sont les difficultés quotidiennes que rencontrent les étudiants vietnamiens ?
Tout d’abord les transports : ils prennent le métro, le bus, la SNCF mais repèrent difficilement sur un plan du Métro ou sur une carte routière l’endroit où ils veulent aller. Les cartes géographiques ne sont pas usuels au Viet Nam. Ils s’expriment mal leur pensée, même pour une simple information comme la bouche du métro, la baguette, le nom d’une rue, les horaires des trains…Certains sons n’existent pas en vietnamien : le u, le roulement du r, les deux s, le p, le ps, les syllabes un et in. La conjugaison et la concordance des temps les déroutent complètement. Déjà, les vietnamiens qui résident en France depuis une trentaine d’années ont dû mal à assimiler la langue de Molière.

En tant qu’étrangers, ils ne peuvent ouvrir à la Banque qu’un compte étranger et tout virement bancaire doit être justifié (ex. fiche de paie, chèque en dollars (avec commission) ou en euros et jamais en espèces). Certains voient leur compte fermer par le Crédit Lyonnais de Masséna voyant leur clientèle toujours verser en espèces les euros dans leur compte tout en taxant une amende de 100 (Bèo, p.21).

Quant à la sécurité sociale, les étudiants étrangers reçoivent un numéro particulier qui ne correspond pas au numéro de sécurité sociale normale et donc pour travailler ils ne doivent pas dépasser les 19,5 heures par semaine ou 800 heures par an. Souvent ils travaillent au noir dans des restaurants chinois, turcs ou vietnamiens. En gagnant peu, ils n’ont pas le temps de perfectionner le français et surtout l’étude du français coûte cher et ils ne savent pas se débrouiller avec les méthodes audio-visuelles de langue française au Centre Pompidou ou dans les diverses bibliothèques dans la Capitale.

Quant aux repas de tous les jours, ils se lassent rapidement des plats servis par le CROUS, ils préparent dans leur studio très réduit le riz les vermicelles et les nouilles et quelques denrées exotiques achetées au marché chinois.

Pour bien intégrer dans la sphère estudiantine française, veuillez consulter sur internet le site de l’Ambassade de France à Hanoï en particulier et les sites suivants :

-  . www.etudiantdeparis.fr
-  . www.eduparis.fr
-  . http://edufrance.fr/vietnam
-  . www.vietnamduhoc.com

Bach Thai Ha
Paris Sep 2004

(1)- Le Monde 10/09/2004, p.10
(2)- Bèo, No 9, Mars, Avril, Mai 2004
(3)- www.ambafrance.org/etudefr//index.htm
(4)- Photo prise par Bèo, p.17.

Catégories
BP Enghien-Les-Bains 2018

Tea time









Jeanne Scott et Minh Tâm

Như Lai et Phan thị Mai







Main dans la main, chị Nhụy, chị Đường và Mẹ của Hồng Vũ

Un grand Merci à Hồng Vũ et Kim Cúc de nous avoir accueillis dans leur belle demeure

Merci également à Tấn Hảo et Lan Hương d’être venues la veille pour aider leur ami de classe BP74

.
Catégories
BP Brie-Comte-Robert 2019

Invitation BP2019

Chères Amies, Chers Amis,

Nous sommes heureux de vous convier à l’Assemblée Générale de l’Amicale BPDN qui se tiendra le 17 mai 2019, chez :

Yvonne & Vĩnh Nhẫn (BP63)
77170 BRIE COMTE ROBERT

La réunion sera suivie d’un repas sur place.

Nos anciens de Montréal organisent cette année une grande fête dans la belle ville francophone, du 27 au 30 juin. Pour cette raison, l’Amicale n’organisera pas d’autres sorties à la suite de l’Assemblée générale comme les années précédentes.

Nous espérons vous voir nombreux à la réunion de Paris et vous souhaitons de belles retrouvailles si vous participez à la réunion de Montréal.

Bien amicalement,
.

ABPDN

.

Catégories
Vendredi 1 Juillet 2005

La Mangue Verte

En attendant de trouver une table pour 30…

Nguyen thi Huong (BP73), Vo van Dac (BP73) & Karin Vo

L’art de manger un Bun Bo Hue à 5

Don Ho est tout heureux de voir son 2è plat arriver. Bon appétit!


Catégories
Non classé

Après la visite du château…

C’est si calme et si reposant… .

Soudain à 16h34’18″, appel d’urgence de Ba Dung pour Minh Tâm sur le portable de Nhu Mai.
– Allo, Ba Dung ?
– Oui, chi MT, on a un très gros problème…
– Très gros problème? Un attentat…? L’Elysée Bonheur ne pourrait pas nous recevoir demain?
– Non, mais anh Paul vient de m’informer que le colis envoyé des Etats-Unis par chi Hong Hoa, contenant la banderole et les badges destinés à notre soirée de samedi est encore sous douanes et DHL ne pense pas pouvoir nous le livrer avant lundi !! _ !!????/]@//& ?§,00#[ !!??# !!!# ?–// !! 🙁 !!!
(Traduit à la façon du capitaine Haddock : “Mille milliards de mille sabords de tonnerre de … Chantilly !”)
Puis MT dit :
– Nous sommes vendredi fin d’après-midi, avec les 35 heures on n’a aucune chance de trouver une solution du côté de l’aéroport.
Pas de panique, déclenchons le plan………… Improvisation !
Le temps presse, il faut faire vite. Tu as carte blanche mais tiens-moi au courant de l’évolution du plan.
– Okedo !


* Vous venez de lire une adaptation des échanges téléphoniques entre MT et BD, écrite pour l’album.
En réalité ces conversations ont été bien plus longues car l’improvisation d’un plan de fabrication d’une banderole et de 100 badges à 24h de la réunion nécessite quand même quelques cogitations!


Heureusement, les pascaliens et leurs familles ne manquent pas d’idées et de volonté… La preuve :


Carole Huynh et Xuan Tien attaquent la fabrication de la banderole


Doan Phuong(BP72) vient renforcer l’équipe


Tout est bien qui finit bien !



Merci à Ba Dung-Thuy Mai et leurs enfants, à Doan Phuong, à Hoa, à Xuan Tien, à Jean-Claude et à tous ceux qui ont participé à ce plan de sauvetage. Grâce à leur travail acharné, l’incident a été surmonté.
La nouvelle banderole n’est peut être pas à l’image de celle que nous avons longtemps concoctée avec Hong Hoa, mais elle est autrement belle car elle est le fruit d’un travail collectif, motivé par l’envie de chacun de donner le maximum de lui même pour la réussite de la soirée.


Merci aussi à Le Hong Hoa (BP69) de s’être donné beaucoup de mal pour nous procurer ce que nous pensons être bien pour ce 50è anniversaire. Une erreur douanière a fait que son colis ne nous est pas parvenu à temps mais son amitié et son dévouement pour la famille pascalienne nous sont connus depuis longtemps !

MERCI


Catégories
Vendredi 1 Juillet 2005

La visite du château


En attendant le guide…

H. O. = Henri d’Orléans

Image rappelant de lointains souvenirs scolaires…

On peut rester devant la statue pendant des heures, rien que pour étudier la couture du gilet…!

Le calme avant l’orage?


Catégories
Vendredi 1 Juillet 2005

Déjeuner à la Capitainerie


SVP ! Avant d’attaquer la terrine royale, que tout le monde me fasse … “Cheeese”!



Petite pose en attendant la suite…

Hmm ! Ca a l’air bien bon tout çà!


Ca nous change du Pho…
-des Moules & Frites…
-des Fish & Chips!