Catégories
Prose

Trái Vải và Dịch Bịnh Não Trẻ Em ở Nam Châu Á

Ho van Hien (BP65)

.

Trái vải (litchi or lychee)

.

Lời giới thiệu : Tạp chí Y khoa danh tiếng của Anh The Lancet (1,5) vừa công bố một khảo cứu về độc tính tiềm ẩn của trái vải hay lệ chi mà người Việt chúng ta rất ưa thích. Tuy nhiên trong trái vải có chất làm cho lượng đường glucose trong máu giảm xuống. Ở người dinh dưỡng tốt (ví dụ ở Mỹ), ăn vài trái vải cho vui miệng không thành vấn đề. Tuy nhiên ở trẻ em thiếu ăn, ví dụ ở Án độ, Bangladesh, hay miền Đông Bắc Việt Nam, các cháu lượm những trái vải sống, hư hay rơi rụng và ăn rất nhiều vì trái ngọt, chất hypoglycin có thể làm đường trong máu thấp đến mức não bộ thiếu đường để dùng cho năng lượng, các cháu mê man, làm kinh, và có thể chết được. (Mức hypoglycin trong trái vải chín bằng nửa mức trong trái chưa chín).

Trong cả 20 năm nay, tại vùng chung quanh thành phố Muzzafarpur, Ấn độ,nơi sản xuất 70% trái vải của toàn quốc, cứ đến tháng 5 là xuất hiện những bà mẹ đem con đến bịnh viện. Tối hôm trước, đứa bé vẫn mạnh giỏi, sáng sớm chúng khóc thét lên, rồi mê man, co giật. Cứ 100 bé bịnh mỗi năm thì có đến 40 bé tử vong. Nhà đông con, nhưng thường trong một làng chỉ một đứa bịnh. người ta nghi siêu vi do chuột dơi, các con ruồi sandflies truyền bịnh, hay nguyên nhân là do ngộ độc thuốc trừ sâu,những món này đầy rẫy trong vùng sống nhờ trồng cây vải (lệ chi).

Trong 3 năm trở lại đây, các chuyên viên y tế công cọng xét hồ sơ 390 em và nhận xét :

. các em không nóng sốt

. nước tuỷ sống không có dấu hiệu nhiễm vi trùng hay virus (ví dụ bạch cầu không tăng)

. mức đường glucose trong máu thấp

. các em thường nhịn ăn buổi ăn chiều

Các bịnh nhân có triệu chứng giống như trường hợp các bịnh nhân ngộ độc do ăn trái cây ackee còn sống ở Jamaica,trong biển Caribbean, gọi là Jamaican vomiting sickness ; mà người ta đã biết là gây ra do ăn trái ackee sống có chứa chất hypoglycin làm đường glucose trong máu tụt xuống quá thấp. Trái còn non thì chứa nhiều chất độc, trái chín thì không.

Từ đó, người ta tìm thấy cũng chất hypoglycin trong trái vải và thử nước tiểu của các bịnh nhân cũng hiện diện chất này.(4).

Các bà mẹ được dặn phải cho con ăn buổi ăn chiều trước khi đi ngủ và giới hạn lượng trái vải chúng được ăn. Hiện nay số bịnh nhân giảm xuống còn một nửa.

Chuyện này từng xảy ra ở Bắc Giang, Việt Nam (2), nhưng theo bài viết sau đây, những nhà nghiên cứu thường định bịnh là viêm não gây ra do một siêu vi mà chúng ta chưa xác định được (3).

Định bịnh chính xác bịnh não do ăn trái vải có thể giúp giải quyết nhanh chóng, chỉ cần truyền nước có glucose cho bịnh nhân để mức glucose trong máu tăng lên. Định bịnh nhanh chóng bằng cách đo mức đường glucose trong máu (có thể dùng cái máy glucometer nhỏ nhắn của người bị tiểu đường hay dùng).

Trên thực tế, các trẻ nhỏ, nhất là trẻ ốm yếu, thiếu ăn, hay nhịn đói lâu (ví dụ vừa bịnh ói mữa do viêm ruột) không được ăn nhiều các trái cây loại vải, chôm chôm, nhãn (họ soapberry [Sapindaceae],tiếng Anh : lychee (Litchi sinensis), rambutan (Nephelium lappaceum), and longan (Dimocarpus longan). Chúng ta nên để ý vì các trái này ngon và dễ nuốt nên chúng ta dễ bị cám dỗ cho chúng ăn để hy vọng “lấy lại sức”. chúng ta không nên ăn vải ( lệ chi ) quá nhiều lúc đang nhịn đói, nhịn ăn.

Những người bịnh tiểu đường mức đường glucose trong máu có thể lên xuống thất thường do thuốc hạ đường trong máu ; nên tham khảo với bác sĩ của mình nếu thường ăn trái vải, và luôn cà trái nhãn, hay trái chôm chôm, cùng trong gia đình Soapberry.

Tôi xin phỏng dịch bài viết sau đây nói về trái vải ở Á Châu để quý vị tham khảo nếu muốn đi vào chi tiết. về một vấn đề tuy mới nổi lên gần đây, lại có nguy cơ lan rộng vì càng ngày trái cây này càng được phổ biến trong giới trồng trọt cũng như giới tiêu thụ.

Bác sĩ Hồ Văn Hiền

.

Bí Ẩn Độc Tính Trái Vải (Lệ Chi ) Một Quan Tâm Sức Khỏe Mới Nổi Ở Miền Nam Châu Á

Làm thế nào mà trái vải hay lệ chi, một loại trái cây nhiệt đới ngon ngọt, có thể gây ra một bệnh ở não bộ do hạ đường huyết (hypoglycemic encephalopathy) gây tử vong ở trẻ em ? Câu trả lời rất đơn giản : trái vải (Litchi sinensis hoặc Litchi chinensis), và các trái cây khác của gia đình Soapberry (Sapindaceae), có chứa các axit amin (amino-acid) khác thường làm rối loạn cơ chế của cơ thể cung cấp đường glucose theo nhu cầu (gluconeogenesis) và cơ chế dùng năng lượng từ các acid béo bằng cách oxy hoá ( β-oxy hóa acid béo, beta oxidation of fatty acids). Điều này cũng được xác nhận đối với trái vải và đặc biệt đối với một trái cây khác cùng họ hàng, trái ackee (Blighia sapida), một thành viên của nhóm Sapindaceae xuất phát từ Tây Phi Châu và được đem qua trồng vào thế kỷ 18 trong các đảo thuộc vùng biển Caribbean.

Trái cây ackee (Blighia sapida)

Từ mấy chục năm nay, người ta đã biết rằng ăn phải quả ackee còn non gây ra một tình trạng gây độc não bộ do hạ mức đường trong máu (bệnh nôn mữa Jamaica) ở trẻ em. Kiến thức lan truyền chậm chạp đến một số vùng của châu Á, nơi mà cái bịnh được gọi là “bịnh trái vải bí ẩn” đã được giải thích bằng nhiều nguyên nhân khác nhau. Ví dụ người ta giải thích bằng màu trái cây (fruit color), đột quỵ do nhiệt lúc thời tiết nóng (heat stroke) ở bang Bihar, Ấn Độ, hay do một loại thuốc trừ sâu chưa xác định ở phía tây bắc Bangladesh, và ở vùng Đông Bắc Việt Nam thì các nhà khảo cứu nghi một virus nào đó tác dụng trên não bộ nhưng chưa xác định được là virus nào. Tuy nhiên. bệnh tiến triển quá nhanh để giải thích bằng một rối loạn do virus gây ra, với thời gian trung bình là 20 tiếng đồng hồ từ lúc đứa bé đang khoẻ mạnh cho đến khi nó bị chết vì bịnh.

Dữ liệu về độc tính của nhóm trái cây Sapindaceae đã được thiết lập từ lâu từ kinh nghiệm lâm sàng ở châu Phi và vùng Ca-ri-bê là một bài học quan trọng cho sức khỏe toàn cầu và độc chất học thần kinh (neurotoxicology). Một sự hiểu biết trên toàn thế giới về các tác dụng có hại trên hệ thần kinh của các chất tìm thấy trong thiên nhiên cũng như các hóa chất tổng hợp sẽ gia tăng tốc độ chẩn đoán và điều trị các bệnh dịch bí ẩn khác của bệnh não bộ do môi trường (environmental encephalopathy). Tiểu lục địa Ấn Độ không lạ gì với các tác động thần kinh của các chất độc trong thực vật-ví dụ, phụ thuộc vào những thực phẩm như hạt đậu cỏ “grass peas” dẫn đến bịnh yếu hai hạ chi (parapareses trong chứng lathyrism) ; và tuỳ thuộc vào thực phẩm chính là khoai mì (sắn, cassava) gây ra bịnh tê liệt do khoai mì gọi là cassavism. Không giống như các bệnh về thần kinh loại này không thể chữa được nhưng tự giới hạn, bệnh não bộ do trái vải và trái ackee có thể được ngăn chặn bằng cách khôi phục nồng độ glucose trong máu. Tuy nhiên, một số trẻ em được báo cáo bị sa sút về nhận thức, yếu cơ, hoặc rối loạn vận động sau khi bị bịnh ; nguyên nhân cần được điều tra.

Tại sao bịnh não do trái vải lại là một sự kiện tương đối mới xuất hiện ở Ấn Độ, Bangladesh và Việt Nam ? Những lời giải thích hợp lý nhất là việc phát triển nhanh chóng của sản xuất trái vải với mục đích thương mại trên khắp châu Á và cả ngoài châu Á. Sản lượng trái vải của Ấn Độ chỉ đứng thứ hai sau Trung Quốc, xứ nguồn gốc của trái lệ chi (Litchi sinensis) và ở đó các hiệu ứng độc hại tiềm năng của trái vải được ghi nhận trong y văn cổ đại. Hiện nay, một số nước châu Á xuất khẩu vải và các trái Sapindaceae khác, bao gồm chôm chôm (Nephelium lappaceum) và nhãn (Dimocarpus longan) để tiêu thụ ở nước ngoài. Ở Mỹ chẳng hạn, không giống như việc nhập cảng được kiểm soát của quả ackee đóng hộp được kiểm soát, và hàm lượng về hypoglycin của trái này được “screened” (theo dõi và giữ trong một giới hạn nào đó), không có hạn chế cho các trái cây thành viên khác của họ Soapberry, bao gồm cả trái vải. May mắn thay, các loại trái cây nhập khẩu đắt tiền và người tiêu thụ chỉ thường ăn một lượng nhỏ, tình trạng dinh dưỡng của họ cũng tốt (không phải thiếu ăn như những nạn nhân bên Án độ), cho thấy có rất ít lý do để lo ngại về vấn đề này xảy ra ở Mỹ.

Tuy nhiên, chúng ta vẫn lo lắng để việc bịnh não bộ do đường huyết thấp này không còn bị lầm lẫn với một rối loạn do nhiễm virus, đặc biệt là bệnh viêm não Nhật Bản B (Japanese encephalitis B), cũng như bịnh này sẽ ảnh hưởng đến các khu vực khác của châu Á, nơi sản xuất vải thương mại đang gia tăng và trẻ em suy dinh dưỡng có thể tìm ăn những trái cây rụng, hư, hay non mà người ta bỏ đi vì không bán được. Các vùng cần quan tâm bao gồm tây bắc Bangladesh, miền nam Trung Quốc, phía bắc Ấn Độ, Terai của Trung bộ Nepal, Vùng Tự Trị Codilllera của Philippines, Bắc Thái Lan và Đông Bắc Việt Nam.

Trồng vải cũng đang gia tăng ở miền nam Châu Phi, Australia, và lục địa Mỹ Châu. Trong tương lai, các nhà nghiên cứu cần phải làm việc với các ngành công nghiệp trái vải để xác định mức độ chất axit hạ đường huyết thay đổi như thế nào giữa các giống, đất, khí hậu và điều kiện thu hoạch. Cần những hướng dẫn cho người tiêu dùng, đặc biệt là trẻ em, cũng như người lớn có đặc tính chuyển hóa làm họ dễ mắc bịnh này, hoặc những người ăn trái cây lúc đói bụng. Trong khi tin tức về độc tính tiềm năng (có thể xảy ra) của trái vải có thể được tiếp nhận với một mức chống đối nào đó, điều này có thể biến mất khi ngành công nghiệp được thông báo về các nghiên cứu đang được tiến hành về cách sử dụng các tác nhân hạ mức đường trong máu của trái vải trong cuộc chiến chống lại hội chứng chuyển hóa (metabolic syndrome) và những rối loạn sức khỏe mãn tính liên quan. Trong một bài hát của Jamaica, nơi Blighia sapida (trái ackee) được xem như “trái cây quốc gia” (national fruit) và thường xuyên ăn kèm với cá muối, có câu sau đây : “một ackee một ngày khiến các bác sĩ đi ngay !”. Không chừng, lúc người ta tìm ra được cách dùng tác dụng hạ đường huyết của trái ackee, câu này lại có lý !

Peter S. Spencer. Valerie S Palmer

Bác sĩ Hồ Văn Hiền phỏng dịch.

.

.

1)http://dx.doi.org/10.1016/S2214-109X(17)30046-3

2)Litchi-associated acute encephalitis in children, Northern Vietnam, 2004-2009.

Emerg Infect Dis. 2012 Nov ;18(11):1817-24. doi : 10.3201/eid1811.111761.

3) Probable Toxic Cause for Suspected Lychee-Linked Viral Encephalitis
https://wwwnc.cdc.gov/eid/article/21/5/14-1650_article

4) Litchi Toxin May Have Caused Mysterious Epidemic in India, Inquiry Finds
https://www.nytimes.com/2015/01/31/world/asia/litchi-toxin-may-give-rise-to-mysterious-epidemic-in-india-inquiry-finds.html ?_r=0

5) Association of acute toxic encephalopathy with litchi consumption in an outbreak in Muzaffarpur, India, 2014 : a case-control study
http://www.thelancet.com/journals/langlo/article/PIIS2214-109X(17)30035-9/fulltext ?rss=yes

.

Bác sĩ Hồ Văn Hiền

Ngày 4 tháng 2 năm 2017

.

.

Catégories
Prose

“Cải Tiến Chữ Quốc Ngữ”

Nguyễn Xuân Quang (BP63)

.

Tôi chỉ xin chú trọng góp ý bàn về cách thức cải tiến chữ Quốc ngữ của tác giả Bùi Hiền.

Chữ Quốc ngữ nằm trong hệ thống mẫu tự ABC Latin nhưng rất đặc biệt ‘không giống ai’ vì mang tính đặc thù, sắc thái Việt. Các nhà truyền giáo Tây phương trong đó nhân vật trọng yếu là Alexandre de Rhodes đã làm ra một hệ thống chữ ABC riêng cho Việt Nam dựa vào các qui luật, nguyên tắc dùng ghi âm tiếng nói của hệ thống chữ viết ABC trong đại tộc Latin đã sẵn có. Tiếng Việt có 6 thanh điệu, các nhà truyền giáo đã dùng chữ Latin để ghi âm tiếng Việt nên chữ Quốc ngữ có 5 dấu giọng thể hiện các thanh điệu sắc, huyền, hỏi, ngã, nặng. Ngoài ra còn có dấu thể hiện các âm đọc của riêng từng mỗi mẫu tự có những âm khác nhau như a có ă, â ; o có ô ơ ; u có ư và d có đ. Nhờ vậy, chữ Quốc ngữ ghi được hầu hết ngữ âm tiếng Việt. Do đó chữ Quốc ngữ mang tính chính xác rất cao so với các chữ viết khác của thế giới và là chữ dễ phổ biến, dễ học.

Như thế một sự cải tiến lý tưởng chữ Quốc ngữ là sự một cải tiến nào đó phải phù hợp với các qui luật ngôn ngữ Việt và Latin thế giới, phù hợp với tiếng Việt, hồn Việt, tâm Việt, văn hóa Việt, sắc thái Việt.

Tiếng Việt có những âm riêng, nhất là thay đổi theo từng địa phương, từng vùng rất đặc thù. Nếu bỏ các âm này thì chữ Việt không còn mang sắc thái Việt nữa. Chữ Quốc ngữ không còn là Chữ (của cả) Nước Việt nữa.

.

Cải Tiến Chữ Quốc Ngữ của Tác Giả Bùi Hiền.

Trước hết tác giả Bùi Hiền vẫn giữ hệ thống mẫu tự ABC. Như thế thì cải tiến của ông bắt buộc phải dựa theo các qui luật ngôn ngữ, phát âm của hệ thống chữ viết ABC Việt và Latin (đã có từ hàng ngàn năm nay).

Tôi chưa được đọc toàn bộ tài liệu giải thích cách Cải Tiến Chữ Quốc Ngữ của tác giả Bùi Hiền, chỉ nhặt được một số dữ kiện trên mạng mà thôi.

(Ảnh : Dân trí)

Xin tóm tắt lại, theo tác giả Bùi Hiền :

Tôi đề xuất bỏ chữ Đ ra khỏi bảng chữ cái tiếng Việt hiện hành và bổ sung thêm một số chữ cái tiếng Latin như F, J, W, Z. Bên cạnh đó, thay đổi giá trị âm vị của 11 chữ cái hiện có trong bảng trên, cụ thể : C = Ch, Tr ; D = Đ ; G = G, Gh ; F = Ph ; K = C, Q, K ; Q = Ng, Ngh ; R = R ; S = S ; X = Kh ; W =Th ; Z = d, gi, r. Vì âm “nhờ” (nh) chưa có kí tự mới thay thế nên tạm thời dùng kí tự ghép “n’” để biểu đạt’.

Tác giả Bùi Hiền cho rằng cách cải tiến chữ Quốc ngữ của ông nhằm mục đích ‘giản tiện, dễ nhớ, dễ sử dụng, tiết kiệm thời gian, vật tư…giúp giảm tiền bạc xuống 8%’ trong một trang giấy’.

Bây giờ ta hãy đi vào chi tiết cải tiến của từng chữ cái một :

C = Ch, Tr

Tác giả Bùi Hiền dùng C thay cả cho Ch và Tr, loại bỏ chữ Ch, Tr. Chữ Hán không có âm Tr.

Ta thấy âm chữ Hán hiện đại chỉ có âm Ch. Âm này bằng âm Hán Việt Tr. Như :

長 /Cháng/ = Hán Việt Trường, dài.

悵 /Chàng/ = Hán Việt Trướng, buồn bã.

池 /Chí/ Hán Việt Trì, ao.

Chữ cái C, Ch, Tr ta có ba âm khác nhau. Ví dụ : C trong Co (co quắp), Ch trong Cho (cho quà) và Tr trong Tro (tro than). Bây giờ thay C cho Ch và Tr và chỉ còn một chữ Co thì dựa vào mấu hốt nào để biết ngay tức khắc khi nào Co là Co quắp, khi nào Co là Cho, khi nào Co là Tro. Khi nhìn C, Ch và Tr là nhận biết ngay lập tức phát âm như thế nào và có nghĩa ra sao. Rất giản dị và chính xác. Còn C= Ch = Tr rất phức tạp. Ta rơi vào trường hợp một âm có nhiều nghĩa. Phải vận dụng đầu óc tìm tòi. Zắc Zối cuộc đời.

Một chữ ghi ba âm không còn đơn giản, trong sáng nữa.

Tiếng Việt mất hai âm Ch, Tr và mất địa phương tính, vùng tính.

Tác giả Bùi Hiền theo âm chữ Hán không có âm Tr nên bỏ Tr tức Hán hóa chữ Việt.

D = Z

Ví dụ Dục thành Zụk, Giáo Dục thành Giáo Zụk. Trong mẫu tự ABC Việt ngữ hiện nay không có Z.

Trường hợp này tác giả Bùi Hiền dựa theo cách pinyin Trung Quốc.

Tài liệu trên mạng không rõ nguồn.

Ông Hồ Chí Minh cũng đã dùng chữ Z thay cho chữ D, ông Hồ viết Nhân Dân thành Nhân Zân.

Ở đây nói lơ lớ ngọng ba Tầu.

Tác giả Bùi Hiền muốn Hán hóa chữ và tiếng Việt. Người Việt sẽ nói lơ lớ hay ngọng như người Trung Quốc nói tiếng Việt hiện nay.

Đ = D

Tôi đề xuất bỏ chữ Đ ra khỏi bảng chữ cái tiếng Việt hiện hành’.

Tác giả Bùi Hiền cũng theo pinyin Trung Quốc bỏ chữ đ này. Chữ Hán phiên âm bằng Latin theo âm Hán hiện đại không có chữ đ.

Như thế nếu bỏ đi chỉ còn d thay cho đ ta lại phải chọn phát âm lúc thì âm đ lúc thì âm d. Ví dụ Za (cây) người Bắc phải chọn phát âm cây Đa, người Trung, Nam chọn phát âm cây Da.

Trường hợp không có đ này cũng giống như trong mẫu tự Anh, Pháp, Ý… Các tộc này thường phát âm D là Đ như Anh ngữ Day phát âm là /đây/. Còn D có khi dùng J thay thế như xe Jeep phát âm là /Dip/, /Zip/ hoặc /Dep/, /Zep/.

Theo tôi chữ Đ, đ là một nét đặc thù trong chữ Việt. Hầu hết các mẫu tự ABC của dòng Latin không có chữ Đ, ngoại trừ thấy rất ít trong chữ ABC của một vài nước như trong mẫu tự Bồ Đào Nha. Các nhà làm ra chữ Quốc ngữ đã lấy chữ Đ, đ này của Bồ Đào Nha đem vào tiếng Việt. Vì sao ? Vì mục đích chính là phân biệt ngay khi nào thì d phát âm theo d khi nào thì phát âm theo đ không phải bận tậm suy nghĩ gì như khi chỉ có một chữ d thôi, làm cho tiếng Việt dễ học, đơn giản, nói thế nào thì có thể viết đúng như thế và ngược lại viết thế nào thì có thể đọc, nói đúng như thế.

Đây là một chữ cái mang tính đặc thù Việt và hữu dụng giúp chữ quốc ngữ chính xác hơn, dễ đọc, dễ học hơn các chữ viết khác không có chữ đ. Không nên bỏ đi.

G = G = Gh

Biến âm này có trong Việt ngữ. Ví dụ gành = ghềnh ; gác = ghếch ; gảnh = ghểnh (đánh cờ)…

Chữ Hán không có Gh nên ông bỏ Gh đi.

F = Ph

Tác giả Bùi Hiền muốn đổi f = ph theo pinyin Trung Quốc. Chữ Hán phiên âm bằng Latin theo âm Hán hiện đại không có Ph chỉ có F nên ông bỏ Ph dùng F. Ông muốn Hán hóa chữ Việt (hơn là Tây phương hóa).

Thật ra chữ Ph tương đương với f là chuyện ai cũng đã biết. Trước đây đã có người đề nghị thay ph bằng f. Điểm này không trở ngại gì mà tiết kiệm được một chữ h. Tuy nhiên Ph cũng là một nét đặc thù của chữ viết Việt Nam nên giữ lại dù có tốn kém tí công tí mực. Đây là lý do những người muốn đổi ph = f trong đó có ông Hồ Chí Minh đã thất bại.

K = C = Q = K

C = K không trở ngại gì. Một số quốc gia phương Tây dùng K thay cho C. Ông Hồ Chí Minh cũng đã dùng chữ K thay cho chữ C, ông Hồ viết Kách Mạng thay vì Cách Mạng.

Nhưng K = Q là chuyển âm khá phổ thông giữa chữ Hán phiên âm bằng Latin theo âm Hán hiện đại và Hán Việt ví dụ như /qílin/ = kỳ lân.

Tác giả Bùi Hiền cho C = Q = K là dựa theo âm K Hán ngữ.

M

Giữ nguyên như cũ.

N

Giữ nguyên như cũ.

Ng = Ngh = Q

. Ng = Q

Tiếng Việt = Tiếq Việt.

Chuyển âm Ng = Q này không thấy có trong tiếng Việt. Nhưng có biến âm Ng = Ngh = K. ví dụ như Mường ngữ K = Việt ngữ Ng : kuôi, kom, kươi = người, kơng, keng = ngẩng, ken = nghẹn… (Diệu Tần, Sơ Lược Về Ngôn Ngữ, San Jose, CA 2.000).

Theo Trung Quốc tác giả Bùi Hiền thay K = Q (xem dưới) nên Ng = K = Q.

. Ngh = Q

Chuyển âm này thấy qua trung gian n không trực tiếp ví dụ con nghê và con kì.

麑 /ní/, nghê.

1 : Con hươu con.

2 : Cùng nghĩa với chữ nghê 猊. Toan nghê 狻麑 là con sư sử.

麒 /ní/, kì.

Kì lân 麒麟 ngày xưa gọi là giống thú nhân đức. Con đực gọi là kì, con cái gọi là lân (http://www.vietnamtudien.org/thieuchuu/).

Việt ngữ gọi con nghê là con kì (thường nói chung là kì lân), vì nghê và kì đều phát âm /ní/ theo phát âm Hán ngữ hiện đại. Ta có nghê = kì tức Ngh = K.

Biến âm này có trong Việt ngữ như nghều = kều (cao) ; nghẹt = kẹt (mũi) ; nghịt = kịt…

Như thế Ng = Ngh = Q cũng dây mơ rễ mái với Hán ngữ.

Nh = N’

Tác giả Bùi Hiền cho rằng : ‘Vì âm “nhờ” (nh) chưa có kí tự mới thay thế nên trong bản trên tạm thời dùng kí tự ghép N’ để biểu đạt’.

Tôi đề nghị có thể lấy mẫu tự N có dấu ngã ở trên Ñ, ñ của mẫu tự ABC Tây Ban Nha : Ñ = Nh. Mẫu tự này đã có sẵn không làm mọi người thắc mắc hay khó hiểu. Ñ coi như một chữ đơn nên thảo chương (program) trong vi tính chỉ phải đánh chữ có một lần, còn dùng N’ như của tác giả Bùi Hiền thì phải đánh chữ hai lần. Tốn thì giờ và tốn mực hơn.

Q = Ng, Ngh

Đã nói ở trên.

R = R

Vẫn giữ nguyên.

X = Kh

Tại sao tác giả Bùi Hiền lại cho X = Kh nhỉ ? Eureka ! Tôi đã tìm ra ! Ông đã ‘cuỗm’ mẫu tự X = Kh này của chữ viết Cyrillic, ngày nay dùng ở Nga và Đông Âu.

Chữ Cyrillic phát triển ra từ chữ Hy Lạp vào khoảng năm 900 (Sau Dương Lịch) bởi St Cyril và St Methodius. Chữ X của Hy Lạp phát âm là Chi nên các vị Thánh này biến Chi thành Kh (Ch = Kh = X).

Tác giả Bùi Hiền lại muốn Nga hóa chữ Quốc ngữ, Nga hóa người Việt nói ngọng theo giọng Nga ?

Ông quả thật là giỏi cóp nhặt của Tầu, của Nga để làm ra chữ Quốc ngữ mới.

W = Th

Sự thay thế này ai cũng cho là quái lạ. Nhưng với tôi chẳng lạ chút nào ! Đây là cách phát âm w = th thấy rõ trong tiếng Gwóngdōngwá = 廣東話 = Quảng Đông thoại (Wikipedia) ví dụ như tìnwá = điện thoại.

Rõ như ban ngày wá = thoại tức ta có w = th.

Tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây nguyên trước kia là đất của Bách Việt. Ngày nay còn gọi hai tỉnh này là Lưỡng Việt.

Tác giả Bùi Hiền dùng chuyển âm này làm phương tiện hữu hiệu để Hán hóa chữ Việt, người Việt qua Bách Việt ?

Z = d, gi, r

Z = d

Đã nói ở trên.

Z = gi

Alexandre de Rhodes dùng Gi thay cho J trong chữ Việt cổ ví dụ như Jà = già ; jó = gió ; jờ = giờ. . . (Từ Điển Việt Bồ La, Alexandre de Rhodes). Nếu tác giả Bùi Hiền dùng Z = gi mà còn dùng J nữa sẽ bị các âm chồng chéo lên nhau.

Chữ Hán phiên âm bằng Latin theo âm Hán hiện đại không có âm Gi. Việt ngữ có biến âm với gi = d tùy theo vùng miền như dàn = giàn ; dăng = giăng ; duộc = giuộc (thuộc, cái múc dầu)… Tác giả Bùi Hiền lấy âm Hà Nội làm chuẩn chắc chọn Gi = D nên mới có Gi = D = Z.

Chữ Hán phiên âm bằng Latin theo âm Hán hiện đại không có âm Gi nên ông lấy Z của Hán ngữ thay cho Gi Việt ngữ.

Z = r

Việt ngữ cũng có biến âm d = r như dắn = rắn ; dàn = ràn ; dựt = rựt… Tác giả Bùi Hiền lấy âm Hà Nội làm chuẩn chắc chọn D = r nên mới có Z = D = r. Người Trung Quốc thường phát âm r là nh như /rén/ là Hán Việt nhân (người), /rì/ là Hán Việt nhật (ngày), /ròu/ là Hán Việt nhục (thịt)… nhưng họa hoằn cũng phát âm r là D như 容 /róng/ là Hán Việt dong, dung (bao dong, bao dung).

Như thế ta có Z = D = r.

Như đã nói ở trên dùng Z là theo ghi âm chữ Hán.

Cũng nên nói thêm là ở đây Z= r (chữ r thường không viết hoa) như thế phải phân biệt Z (= r) với R viết hoa. Thật là phiền phức.

Bổ sung thêm một số chữ cái tiếng Latin như F, J, W, Z’.

Tác giả Bùi Hiền : “bổ sung thêm một số chữ cái tiếng Latin như F, J, W, Z” mới nhìn qua chúng ta và nhất là người Tây phương, lầm tưởng là Tây phương hóa chữ Việt, nhưng thật ra là Hán hóa. Những chữ này đều dùng trong pinyin của Trung Quốc. Ông cải tiến chữ Quốc ngữ theo cách pinyin Trung Quốc.

.

NHỮNG TAI HỌA CỦA CẢI CÁCH CHỮ QUỐC NGỮ CỦA TÁC GIẢ BÙI HIỀN

. Hán hóa chữ Việt

Sự cải tiến chữ Việt của ông Bùi Hiền biến chữ Quốc ngữ thành một con quái vật, không những chỉ có đầu Ngô mình Sở mà có đầu Hán, thân người cũng Hán, đít là Nga, tay là Quảng Đông, chân là Tây phương và đuôi là Việt Nam. Rõ ràng nó mang nặng tính Hán hóa không chối cãi vào đâu được.

Căn bản cách cải tiến chữ Quốc ngữ của tác giả Bùi Hiền là dựa vào Hán hóa chữ Việt, không phù hợp với các qui luật ngôn ngữ Việt.

Những âm đặc biệt của chữ Quốc ngữ mà chữ Hán không có như Tr, Gi… giúp chữ Việt khác chữ Hán, ông bỏ đi cho chữ Việt giống chữ Hán, tiếng Hán.

. Biến người Việt thành một dân tộc nói đớt, nói lơ lớ, nói trọ trẹ, nói ngọng như người Trung Quốc nói tiếng Việt chuẩn ngày nay.

. Cho rằng giúp người ngoại quốc dễ học. Có lẽ chỉ giúp người Trung Quốc hay Nga dễ học tiếng Việt thôi.

. Làm mất các nét đặc thù của chữ Việt, mất dân tộc tính Việt, mất căn cước, bản sắc Việt (như bỏ đ, ph, tr… đi), làm mất hồn Việt, tâm Việt, văn hóa Việt.

. Tách chữ Quốc ngữ ra khỏi dòng chữ Latin thế giới, làm trở ngại cho sự nghiên cứu tiếng Việt của các nhà ngôn ngữ học Việt Nam và ngoại quốc qua cách dựa vào sự đối chiếu chữ Quốc ngữ với chữ viết, ngôn ngữ loài người, nhất là với Ngôn Ngữ Ấn Âu. Ví dụ : there, đấy, đó, kia, tê, đằng ấy, đằng đó. Ta có there biến âm với tê, phương ngữ Huế (ngoài tê = over there). Nếu viết theo tác giả Bùi Hiền thì There là Were, không có cách nào thấy được there có mặt chữ giống như tê được. Anh ngữ throne, Pháp ngữ trône, Nga ngữ tron, ngai, ngôi. Ta thấy tron- = Việt ngữ trôn (đít), chỗ để ngồi, bán trôn nuôi miệng. Rõ ràng throne, trône, tron biến âm với Việt ngữ trôn. Nếu viết theo tác giả Bùi Hiền là Won thì không có cách nào thấy được throne, trône, tron giống như trôn được. Anh ngữ thrust, đẩy, xô, thúc, thọc vào, đâm bằng vật nhọn, động tác làm tình của phái nam. Th(r)ust biến âm với Việt ngữ thục, thúc, thọc. Theo th = đ, thrust = đục, đụ (đụ là do đục cắt bỏ c, Tiếng Việt Huyền Diệu). Nếu viết theo tác giả Bùi Hiền là Wust thì không có cách nào thấy được thrust có mặt chữ giống như thục, thúc, thọc được… Tôi đã tìm được sự Liên Hệ Giữa Việt Ngữ và Ấn-Âu Ngữ qua chữ viết Quốc ngữ hiện nay một cách dễ dàng (xem Liên Hệ Việt Ngữ và Ấn Âu Ngữ trên blog của tôi).

. Chữ cải tiến của tác giả Bùi Hiền hiển nhiên làm cho người ngoại quốc có chữ viết của họ thuộc dòng Latin khó học chữ Việt vì không còn tương đồng cách viết với chữ nước họ.

. Chữ viết gắn liền với tiếng nói, ngôn ngữ liên quan với văn hóa. Phá hỏng chữ Quốc ngữ, Hán hóa, ngoại bang hóa làm mất gia tài văn hóa, nguồn cội Việt, hồn Việt. Mất chữ Việt làm mất tiếng Việt không khó. Mất tiếng Việt là mất nước. ‘Tiếng Việt còn nước Việt còn’ (Phạm Quỳnh). Các lớp trẻ khởi đầu học chữ cải cách của tác giả Bùi Hiền phải học lại chữ hiện nay mới đọc được sách ‘cổ” tạo ra những thế hệ mất gốc Việt và dễ bị đồng hóa.

. Gây xáo trộn tâm lý, đời sống tinh thần và xã hội của thế hệ đang dùng hệ thống chữ ABC hiện nay. Có thể đưa tới hỗn loạn.

. Chữ quốc ngữ hiện nay phản ánh tiếng nói ba miền Bắc, Trung, Nam. Ông Bùi Hiền qui về tiếng nói Hà Nội dẹp bỏ đi hết các chữ diễn tả các âm của vùng khác làm phân hóa dân tộc, nghèo nàn tiếng nói đi. Tiếng Việt Nam chỉ còn là tiếng ‘nước Hà Nội’, không còn là ‘Quốc ngữ’, chữ của quốc gia Việt Nam gồm cả ba miền.

.

NHỮNG LỢI ÍCH CỦA CẢI TIẾN CHỮ QUỐC NGỮ CỦA TÁC GIẢ BÙI HIỀN

Như đã nói ở trên tác giả Bùi Hiền cho rằng cách cải tiến chữ Quốc ngữ của ông nhằm mục đích ‘giản tiện, dễ nhớ, dễ sử dụng, tiết kiệm thời gian, vật tư…giúp giảm tiền bạc xuống 8% trong một trang giấy’.

Những điểm phân tích đã nói ở trên cho thấy những điều ông nêu ra không đạt được mà ngược lại còn làm cho chữ Việt mới của ông bất tiện, rườm ra, phức tạp, khó học, khó nhớ, khó sử dụng hơn. Nhưng quan trọng nhất là cái đại họa bị Hán hóa, mất hồn Việt, sắc thái Việt, văn hóa. Việt Nam bị Trung Quốc đồng hóa…

Còn tiết kiệm thời giờ và tiền bạc 8% trong một trang giấy cũng chưa chắc đã có được hay có đáng để đổi lấy những đại họa nghiêm trọng mà nó gây ra không ?

Nếu muốn tiết kiệm thời giờ và tiền bạc ta có thể giản dị hóa chữ Quốc ngữ bằng nhiều cách khác. Tôi xin đề nghị một hai cách.

.

CẢI TIẾN CHỮ VIỆT CỦA TÔI

Chỉ nhằm mục đích làm đơn giản, ngắn gọn, để tiết kiệm thời giờ và tiền bạc mà tránh được các khiếm khuyết và tai họa nêu trên tôi xin đưa ra một hai cách cải tiến chữ Quốc ngữ dựa trên các nguyên tắc căn bản của ngôn ngữ học :

1. Vẫn giữ y nguyên hệ thống mẫu tự ABC hiện nay theo dòng chính Latin nói riêng, của ngôn ngữ loài người nói chung, không thay đổi gì về các qui tắc căn bản của ngôn ngữ học.

Chỉ thay đổi hình dạng mẫu tự một chút mà không làm mất mặt chữ hoặc chỉ thêm các dấu chỉ định biến âm nên vẫn còn nhận diện ngay được mẫu tự đó trong nháy mắt.

2. Vẫn duy trì đặc tính, căn cước Việt của chữ Quốc ngữ Việt Nam. Không Hán hóa chữ Việt bằng cách dùng cách biến âm theo pinyin của Trung Quốc qua các mẫu tự chỉ có trong mẫu tự Tây phương như F, J, W, Z.

3. Để tránh cắt bỏ đi mất quá khứ Việt, văn hóa, truyền thống cổ Việt đưa đến diệt vong.

4. Chỉ cải tiến mẫu tự kép.

Tôi vẫn giữ y nguyên hệ thống chữ Quốc ngữ hiện nay, chỉ cải tiến các chữ cái kép hay ghép nhằm mục đích đơn giản xuống còn một chữ để giảm thời gian và giấy mực.

A. Cách Thứ Nhất

Vẫn giữ y nguyên hệ thống ABC hiện hành của chữ Quốc Ngữ chỉ thay đổi biến các chữ kép (phải đánh chữ hai lần) hay ghép (phải đánh chữ ba lần) thành một chữ, chỉ cần đánh chữ một lần. Ví dụ Ch, Tr, Đ, Gh, Gi, Kh, Ng, Ngh, Nh, Ph, Qu, Th thảo chương vi tính thành một đơn vị chỉ cần đánh chữ một lần. Gõ một lần nhẩy ra Ch chẳng hạn.

Cách này đánh chữ kép, ghép chỉ một lần. Tiết kiệm thời gian mà không gây xáo trộn gì.

Cách này có khuyết điểm là viết tay vẫn như cũ.

B. Cách Thứ Hai

Cách này thay đổi chữ kép hay ghép thành một chữ cái mới mà vẫn giữ nguyên hình chữ cũ. Cách này có thể viết tay và đánh chữ.

* C vẫn giữ nguyên.

* Ch

Có ba cách :

. Hoặc biến dạng chữ C đi như đầu trên chữ C cong quặp vào như móc câu liêm chẳng hạn. C móc câu liêm = Ch. Phát âm là /chờ/.

Các này có thể viết tay và muốn đánh chữ thì thảo chương (progam) trong vi tính và cũng chỉ đánh một lần. Tiết kiệm thời gian và giấy mực.

. Hoặc thêm một dấu phẩy trên (apostrophe) như C’, ta có C’ = Ch.

Cách này viết tay vẫn phải cần hai động tác nhưng dấu phẩy ít tốn mực hơn chữ h. Còn program được thành một chữ C’ hay Ć (đã có sẵn như thấy trong font Verdana) thì đánh chữ chỉ còn một lần.

. Hoặc dùng mẫu tự Ĉ, ĉ (có sẵn trong font Verdana) = Ch.

Cách này dễ dàng cho việc thảo chương.

Các cách này dễ phân biệt được ngay C và Ć hay Ĉ (Ch) mà vẫn duy trì được cả âm Ch của các vùng địa phương.

* D và Đ

Vẫn giữ như cũ. Phân biệt được hai âm d và đ ngay tức khắc và đ là một nét đặc thù trong chữ Việt mà chỉ thấy trong chữ viết của Bồ Đào Nha mới có chữ Đ.

* G, Gi, Gh

Tương tự :

G = Gi

. Biến đổi hình dạng G một chút thay cho Gi. Như G đầu có móc câu liêm chẳng hạn.

. Thay G có dấu chấm i ở trên Ġ, ġ (có trong font Verdana) cho gi.

G = Gh

Gh thay đổi hình dạng của G hay Ĝ, ĝ thay cho Gh.

* K

Giữ nguyên như cũ vì dùng trước i, e. Đây cũng là một nét đặc thù của chữ Việt.

* Kh

Biến đổi hình dạng K một chút hay K’thay cho Kh. Thảo chương K’ thành một chữ.

* L

Giữ nguyên như cũ.

* M

Giữ nguyên như cũ.

* N

Giữ nguyên như cũ.

* Ng

Nếu muốn thay Ng hằng chữ N có chấm hay phẩy ở dưới Ņ ņ (vì chữ g có phần thòng xuống dưới nên chọn dấu phẩy để ở dưới).

* Nh

. Biến đổi hình dạng N một chút hay Ń, ń thay cho Nh (vì chữ h có phần cao lên nên chọn dấu phẩy để ở trên).

Cách này viết tay và thảo chương được.

. Lấy Ñ, ñ trong mẫu tự Tây Ban Nha.

Ngoài ra, như đã nói ở trên có thể lấy N có dấu ngã Ñ, ñ trong mẫu tự Tây Ban Nha thay cho Nh. Nếu lấy mẫu tự này ta cắt giảm bớt đi được một chữ h. Mẫu tự này đã có sẵn coi như một chữ đơn nên thảo chương trong vi tính dễ còn N’ phải đánh hai lần ngoại trừ thảo chương thành một chữ.

* Q, Qu

Qu = Q’

* R

Vẫn giữ nguyên.

* S

Vẫn giữ nguyên.

* X

Vẫn giữ nguyên.

* T

Vẫn giữ nguyên.

* Th

Có thể thay thế bằng T’, ť (font có sẵn như trong Verdana).

* Tr

Thêm hai dấu phẩy như dấu ngoặc kép vào T, ta có T” = Tr.

* V

Vẫn giữ nguyên.

* X

Vẫn giữ nguyên.

* Y

Vẫn giữ nguyên.

Tóm lại các cách cải tiến này nếu được thảo chương đánh chữ chỉ một lần. Tiết kiệm thời gian và giấy mực mà không gây xáo trộn gì.

. Ghi Chú

Nếu muốn tránh mang tiếng ngoại quốc hóa và sợ người ngoại quốc nhầm lẫn với các chữ cái của nước họ vì dùng các mẫu tự sẵn có như Ĉ, ĉ, Ġ, ġ, Ĝ, ĝ, ť thì các phần dấu thêm vào C để thành Ch, vào G để thành Gi, Gh, vào N để thành Ng, Nh, Ngh, vào Q thành Qu, vào T để thành Th, Tr có thể dùng bất cứ dấu nào thấy thích hợp và dễ nhớ cũng được nhưng phải thảo chương thành một chữ đơn có dấu.

Tôi đề nghị các dạng trên chỉ để làm ví dụ.

.

. KẾT LUẬN

Tóm lại chữ Quốc ngữ hiện nay đã ghi được hầu hết ngữ âm tiếng Việt, đã đáp ứng được nhu cầu tiếng nói Việt. Chữ Quốc ngữ rất chính xác, dễ học, dễ nhớ, dễ viết, dễ dùng. Chữ Quốc ngữ mang sắc thái Việt, tâm hồn Việt…

Chữ quốc ngữ vì mang tính đặc thù, sắc thái Việt nên ‘không giống ai’, trông có vẻ ‘loạn chữ’ (danh từ của tác giả Bùi Hiền) hay còn một vài không hợp lý nhỏ. Nếu muốn gọn lại, nhất là chỉ nhằm mục đích làm gọn, tiết kiệm thời giờ và tiền bạc, chúng ta chỉ cần giữ nguyên bộ chữ Quốc ngữ hiện nay rồi thảo chương các chữ kép, chữ ghép lại thành một đơn vị gõ chữ hay cắt tỉa bớt, xén bớt chữ kép, chữ ghép lại thành một chữ đơn có dấu như cách cải tiến của tôi mà không gây xáo trộn gì.

Chữ Quốc ngữ cải tiến của tác giả Bùi Hiền mang nặng tính Hán hóa, Nga hóa chữ Việt. Nếu thành hình là một đại họa cho dân tộc Việt Nam.

Có một điều rất lạ là tại phiên họp Chính phủ thường kỳ, Phó Thủ tướng Chính phủ Vũ Đức Đam khẳng định, Chính phủ và bộ Giáo dục và Đào tạo (GD&ĐT) chưa có chủ trương cải tiến chữ Quốc ngữ. Tác giả Bùi Hiền nói là “Tôi mới nghiên cứu xong một nửa… (còn nửa phần nguyên âm nữa -ghi chú của tác giả-) Nghiên cứu này của tôi hoàn toàn mới chỉ nằm ở bên lề một hội thảo khoa học, tôi chưa trình bộ GD&ĐT… (www.24h.com.vn).

Vậy mà sách giáo khoa dành cho lớp 1 đầu tiên đã phát hành dưới danh hiệu Bộ Záo Zục và Đào Tạo.

Tiếq Việt tập 1 của Bộ Záo Zụk và Đào Tạo (Hình trên mạng không rõ nguồn).

Lạ nhỉ ! Chỉ có ở Việt Nam ta mới có chuyện lạ như thế này !

Hy vọng quyển sách này không có thật !

.

Xin hồn thiêng sông núi Việt, tổ tiên Rồng Tiên phù trợ cho chữ Quốc ngữ Việt Nam, cho Tiếng Việt, cho dân tộc Việt, cho đất nước Việt Nam.

.

.


.
Bổ túc :

(Trích Thanhnien.vn)

“Một ví dụ PGS-TS Bùi Hiền đưa ra được viết bằng 2 kiểu chữ hiện thời và cải tiến

LUẬT GIÁO DỤC

Điều 7. Ngôn ngữ dùng trong nhà trường và cơ sở giáo dục khác ; dạy và học tiếng nói, chữ viết của dân tộc thiểu số ; dạy ngoại ngữ.

1. Tiếng Việt là ngôn ngữ chính thức dùng trong nhà trường và cơ sở giáo dục khác. Căn cứ vào mục tiêu giáo dục và yêu cầu cụ thể về nội dung giáo dục, Thủ tướng chính phủ quy định việc dạy và học bằng tiếng nước ngoài trong nhà trường và cơ sở giáo dục khác.

LUẬT ZÁO ZỤK Diều 7. Qôn qữ zùq coq n’à cườq và kơ sở záo zụk xák ; zạy và họk tiếq nói, cữ viết kủa zân tộk wiểu số ; zạy qoại qữ.

1. Tiếq Việt là qôn qữ cín’ wứk zùq coq n’à cườq và kơ sở záo zụk xák. Kăn kứ vào mụk tiêu záo zụk và yêu kầu kụ wể về nội zuq záo zụk, Wủ tướq cín’ fủ kuy dịn’ việk zạy và họk bằq tiếq nướk qoài coq n’à cườq và kơ sở záo zụk xák.
… “

.

.

Catégories
Prose

De la Poésie

À mes Anciens du Collège Francais de Tourane
Lưu Nguyễn Đạt

.

nuitée améthyste, oil enamel, luu nguyen dat – 2007

.

Parler de la poésie, c’est la revivre intensément par les sentiments partagés à son approche. Poésie de coeur, joie et peine, elle s’infiltre dans la vie et celle-ci la dédouble comme la rivière reflète le sourire, et l’haleine se dilue aux vagues évanescentes.

Par la poésie, l’océan change de couleurs, mystiques, impalpables, dans la vision et l’âme mises en abyme[1] du poète. Ainsi se révèle l’amour, en son langage secret, métamorphosant la poésie en lumière merveilleuse d’aurores atemporelles, antérieures et futures, entre le dernier rayon de soleil et l’étincelle nocturne, quand la nature se fige de silence et que les mots ineffables s’immolent en leur langueur originelle.

La poésie parfois s’avère exigeante. Elle réclame la vie entière et demande que la rivière rejoigne l’océan ou pourquoi l’inspiration se tarit à fleur d’amour. Elle réclame la rosée des nuages et la foi de l’amour humain, au niveau des joies et des douleurs universelles. Elle est le premier cri de vie et la voix de la conscience engagée et celle de la passion intarissable.

Spéculaire et décentrée, la poésie se transforme en symboles et incantations, métaphores et séduction ; en miel et épices, tendresse et cruauté ; en ivresse immense et dénuement minime. Signifiante, elle est réelle et abstraite, inondée de signes et d’absences, de liens et d’écarts. Le poète s’éprend des mots à fleur de vie, entière et inachevée, à dimensions multiples, à mi-chemin entre l’absolu et le relatif.

La poésie se fait corporelle, en même temps élan de vie. Elle est galanterie amoureuse et turbulence enfantine, comme le sang qui coule et la peau qui se déchire. Elle lutte pour sa propre existence, spirituellement puissante lorsque extraordinaire, mais aussitôt anémique car incapable d’ordre et de calcul réels. Périssable dans sa propre immortalité de création et de légende, elle existe et périt en dehors des conventions sociales, au-delà des formalités académiques. La poésie flotte à fleur d’eau et se noie dans ses propres vagues qui se creusent en abysses, au sein même de chaque cellule existentielle, gouttelette d’amour, ou larme vécue.

La poésie s’assume en questions ouvertes, sans en pouvoir donner de réponse directe, ni d’interprétation satisfaisante. Vague, sans limite, elle s’exprime pour se recomposer en devise occulte et déjà prophétique :

si toutes les rivières sont douces
d’où vient le sel de l’océan ?

if all rivers are sweet
where does the sea get its salt ?[2]

La poésie et sa signification béante parfois se tendent la main pour révéler un pacte écrit à l’encre sympathique, d’intimité voilée d’innocence scrupuleuse, ou de sagesse branlante, comme une réalité multiple aux termes de sa propre déconstruction :

quelle distance sépare la lune
du clair de lune ?

how far is the light of the moon
from the moon ? [3]

La parole poétique ainsi se suspend à l’ombre d’un sourire de sable, enfoui dans son propre désert de silence. Elle se dévide parfois de la présence humaine pour se métamorphoser en forêts et fleurs pétrifiées, en racines du ciel ou sources cristallisées. Le poète alors isolé dans son voyage terrestre, muet de terreur et d’angoisse, reprend le chemin de retour à la création originelle, et de là, raccourcit la voie vers l’inconnu et le sacré, dont les bornes indicatrices ont l’allure de météores brillants, ou de pierres précieuses, extraordinaires et caressantes :

quand tu touches la topaze
la topaze te caresse

When you touch topaz
topaz touches you [4]

La poésie a donc son propre univers, celui de l’âme humaine en cours de réincarnation aux confins de la création universelle, à l’encontre des limites de la parole pratique et conventionnelle, par delà la réminiscence des mythes anciens et de l’oubli collectif. La poésie, ouvrant la voie vers l’immensité du vide et vers la foi béante de la quête sans fin, se creuse en profondeurs multiples pour retrouver la source vitale et l’origine du temps et de l’espace. Elle est déjà l’espérance au sein même du désespoir.

La poésie est ainsi l’initiation vers l’essence et la réalité unique de la condition humaine.

Luu Nguyen Đat, PhD, LLB/JD, LLM

.

[1] D’après André Gide, effet de miroir, spécularité, récit au second degré. Réduplicatin intérieure, spéculaire… Une mise en abyme désigne l’enchâssement d’un récit dans un autre récit, d’une scène de théâtre dans une autre scène de théâtre (théâtre dans le théâtre), ou encore d’un tableau dans un tableau.

[2] Pablo Neruda, The Book of Questions, (El libro de las preguntas), Copper Canon Press : Port Towsend, 1991.

[3] Pablo Neruda, The Book of Questions, (El libro de las preguntas), Copper Canon Press : Port Towsend, 1991

[4] Pablo Neruda, Stones of The Sky, (Las pierdas del cielo), Copper Canon Press : Port Towsend, 1987.

.

.

.

.

.

NÓI VỀ THƠ
http://www.blaisepascaldanang.fr/spip/article.php3 ?id_article=583 .

Catégories
Prose

Artisan-créateur de rêve

Hoàng Ðình Tuyên BP63

.

Le temps passe. Les souvenirs s’estompent, laissant une philosophie de la vie qui évolue avec le temps et les expériences.

Dans les années 59-60 les jeunes étaient attirés par la nouvelle vague venue de l’Europe et des USA. La belle Brigitte Bardot portait le flambeau de la beauté. Après “The King “, nous avions notre Elvis Phuong, Paolo Doan et Công Thanh. Ils imitaient Elvis Presley, Ray Charles, Little Richard et bien d’autres encore. Je n’oublierai pas Jules Tambicannou. Ils sont toujours actifs dans le monde musical. Nous pouvons entendre leurs belles voix ainsi que celles des autres amis dans le CD édité par l’AEJJR l’année dernière.

A cette époque, je dessinais des robes pour mes sœurs et mes amies en suivant la mode des revues Elle, Marie Claire ou Salut les Copains. Ma passion pour la création v[ent peut-être de ces revues françaises . Rien n’est plus beau que notre jeunesse. Né dans la guerre, j’y ai grandi et vécu… Lorsque la guerre a pris fin, j’ai dû quitter mon cher pays natal. C’est une vraie déchirure gravée à vie dans mon cœur…

Après 1975, une nouvelle vie redémarrait à zéro dans mon pays d’accueil. Laissons le passé… C’est très pénible de quitter son pays, de faire table rase de ses études et de tourner une nouvelle page de sa vie. Regardons devant nous. Je me lance dans la vie active sans trop de difficulté. D’architecte, je suis devenu artiste-peintre et designer de mode. Je vis pour la Beauté et la Création.

Depuis 30 ans je travaille à domicile et rien ne m’est plus agréable que d’aller dans mon jardin aménagé suivant le concept du Feng Shui. Là je peux me ressourcer pour des idées nouvelles. Dans cet environnement de soleil, de couleurs, d’ombre et de mi-ombre, je laisse mon imagination errer dans la nature. A travers les feuilles de bambou, je vois apparaître tout mon village natal avec ses activités quotidiennes dans sa tranquillité. C’est le retour des champs avec les bœufs tirant la charrette au crépuscule. Les femmes avec leurs balanciers et leurs paniers vides. Je dessine au crayon une esquisse vite faite pour fixer ce moment de bonheur d’évasion mentale. Un tableau est créé.

Pour moi, la question du temps ne compte pas. Le travail n’est que plaisir et rêverie. Parfois mes désirs m’entraînent vers les femmes pour mes peintures de nus. Ah ! ces formes naturelles si belles à voir et si douces à toucher !

Habiller les femmes pour la mode et les déshabiller pour le dessin est tout un art. C’est l’Art de profiter de la vie tout en essayant de comprendre notre existence sur terre. Je cherche à donner un sens à ma vie avec la philosophie et l’enseignement de la sagesse de Confucius.

Avec une base architecturale assez solide, il est plus facile de mieux comprendre le concept de la vie avec la Nature : le Feng Shui. Le Feng Shui se base sur l’explication que toute chose physique et toute direction contiennent des attributs qui entretiennent des rapports mutuels.

Tout ce qui existe dans l’univers se trouve dans cinq éléments fondamentaux. Ces cinq éléments sont la terre, le feu, le métal, l’eau et le bois. C’est là que les noms “Vent et Eau” ont pris tout leur sens. Cette science s’intéresse à l’environnement. Elle permet de sélectionner et d’organiser un environnement dans lequel les énergies du yin et du yang se trouvent en équilibre. Mes créations de mode et tableaux laqués sont imprégnés de ces principes, depuis le choix du thème, la composition, l’équilibre, jusqu’aux couleurs. Ils sont basés sur cet art de mieux vivre pleinement avec les douceurs de la Nature.

Pour moi, la peinture n’est en fait qu’une recherche de la forme et de l’expression du cœur avec la compassion. Pour l’artiste c’est un passe-temps créatif dans une ambiance très Zen. Mes tableaux représentent certains paysages d’une beauté simple et rêveuse du Viêt Nam A Huê, un petit coin de mon pays natal peint de couleurs lumineuses. La rivière des Parfums longeant la Cité Impériale coule calmement dans la fraîcheur. Au Sud, serpente le Dông Nai en terre sereine qui a pu garder sa tranquillité. Ces splendides paysages au crépuscule ou à l’aurore sont des enchantements.

Le son de l’esprit qui fait vivre le mouvement, peut s’interpréter dans le sens de la vitalité végétale . Il imprègne les éléments de la nature tout autant que l’artiste. Il doit être capté dans la peinture de manière à en rejaillir pour être perçue et ressentie par le spectateur. Le Feng Shui englobe un très vaste domaine qui existe depuis plus de 3000 ans. Il est bien entendu difficile de parler de tout cela en quelques lignes. Je pense que c’est une voie raisonnable qui nous aidera à mieux apprécier et comprendre la vie.

Soyez les bienvenus dans le monde du Dragon, du Tigre, de la Tortue et du Phoenix. “Long, Lân, Quy, Phụng” sont les quatre animaux fétiches que chaque habitation doit avoir. Ils sont placés à des endroits précis dans la maison. Leur présence nous aidera à réaménager la disposition et l’équilibre du logement pour le bien être.

C’est bien agréable d’aimer son travail, de profiter de la paix et la plénitude de la vie. Le travail n’est plus une contrainte mais il devient un plaisir ou même une passion. Avec le Feng Shui, nous apprenons comment donner un équilibre pleinement harmonieux et une existence agréable à tous ceux qui résident dans cet environnement. Le temps fuit mais les souvenirs restent, tout comme les rêves dont se nourrit l’âme humaine.

Le Bonheur est peut être là.

Hoang Dinh Tuyen

.

Hoang Dinh Tuyen et ses creations de mode (Paris)

.

Catégories
Prose

Evolution of Viet Identity

Đặng văn Chất (JJR)

.

TWELVE HISTORICAL and geopolitical factors played crucial roles in the development of Vietnamese identity. Recent contentious issues of culture, politics and race may shape its future evolution.

Resurgence of Vietnamese Nationalism

Staggering from two centuries of vicious battles between Trịnh–Nguyễn Lords and Kings Nguyễn Huệ – Nguyễn Ánh, Vietnamese identity was further fragmented by French colonization and the “Ten-thousand-day War” (1945-1975)(1).

In preparation for a major escalation of the Vietnam War in 1958, North Vietnam’s Prime Minister Phạm văn Đồng, hoping for increased military support, endorsed with ambiguity the declaration of China about its territorial waters which encompassed the Spratly and Paracel Islands belonging to South Vietnam (2). At the time, potentially vast undersea oil and natural gas fields were unknown, and PRC forces did not physically claim the islands, some already occupied by South Vietnamese, Filipinos and other South-East Asian fishermen and soldiers. Ultimately, the PRC took by force some Hoàng Sa islands in a naval battle with the South Vietnamese Navy in 1974(3). Despite the loss, South Vietnam during its short existence, continued to assert claim to the islands, as did the Socialist Republic of Vietnam afterwards.

Since 2007, empowered by the strength of its booming economy and its modernized armed forces, China became more aggressive in its policies toward the Paracel and Spratly archipelagos and toward America(4). To counterbalance the growing Chinese threat, despite lingering human rights and democracy issues, the US has increased its support of Vietnam in a wide range of activities, from the organization of Miss Universe pageant in Nha Trang in 2008 to the 2010 Memoradum of Understanding to build nuclear reactors(5), signed as a bilateral nuclear cooperation agreement and transmitted to the US Congress for review in May 2014(6).

The First Emperor, the First Factor

Until Qin Shi Huang (Tần Thủy Hoàng) unified ancient China by military conquest of six feudal kingdoms, the territory north of the Yangtze River was politically fragmented and the land south of the river considered wild and unclaimed, occupied by “barbarians.” Tần Thủy Hoàng, calling himself Shi Huang Di or First Emperor (b. 259, r. 221-210 BCE), had unknowingly started the process that would lead to the creation of Nam Việt (Nanyue) when he sent five legions south to conquer territories with no defined borders. Indeed, his general Triệu Đà (Zhao Tuo) took advantage of the weakened central authority after the death of the First Emperor to proclaim himself Emperor of Nanyue (r. 207-136 BCE). The establishment of a new, unified China by Qin Shi Huang and the actions of Zhao Tuo might have been the first catalysts in making the indigenous Lạc Việt people aware of their “non-Chineseness,” therefore of their own identity as a separate ethnic, cultural and political entity. The initial absence of a national perception explains why local inhabitants did not opposed An Dương Vương, the leader of the Âu Việt tribes, and Triệu Đà after they conquered the Red River Basin. Việt national consciousness would reveal itself for the first time in 40 CE with the Trưng Sisters’ uprising.

Of interest, studies of cranio-dental indices and ancient mtDNA of skeletons unearthed (1999 to 2007) at Mán Bạc (Yên Mô, Ninh Bình Province) and dated to the late neolithic Phùng Nguyên culture (c. 1900 BCE) revealed “a remarkable admixture between an indigenous and morphologically Australomelanesian population that was represented earlier at Cồn Cổ Ngựa [c. 3600 BCE in Thanh Hóa], and an immigrant Neolithic East Asian population that was morphologically related to modern Vietnamese.”(7)

Nam Việt State, the Second Factor

Nam Việt territory included Guangxi (Quảng Tây), Guangdong (Quảng Đông), Âu Lạc (North Vietnam and north Central Vietnam), and part of Hunan (Hồ Nam) and Yunnan (Vân Nam). The Ngũ Lĩnh (Wuling, Five Peaks) Mountains(8), south of Dongting Lake (Động Đình Hồ) in Hunan, China, served as its northern boundaries. Also called Nanling Mountains, they separate central China from southern China (known as Lingnan−Lĩnh Nam−in ancient times), providing a natural barrier against the Han army.

Indigenes likely with a darker skin and a matriarchal society inhabited ancient Âu Lạc. They lived in tribal villages and had no written language. They could not form a true state as there were no power structures higher than the village level, no written laws and no bureaucratic organization. However, the building c. 400-100 BCE of the massive triple earthen ramparts of Cổ Loa, reaching 5-10m high and 25m at the base, implies mobilization of major resources by a central authority and leadership, backed by a strong military force. Thus, an early state-level organization existed in Dongsonian Âu Lạc before the Chinese conquest(9). At the dawn of history when national identity was a vague notion, local inhabitants might have called the place they lived on Đất (land) and Nước (water) which, according to Chinese Vietnamese historian Trương Thái Du, transliterated in Chinese as Ou Luo, Âu Lạc(10). In contemporary Vietnamese, đất nước is “nation,” and nước Việt Nam is the state (country) of Vietnam.

Classically, An Dương Vương ruled Âu Lạc till 207 BCE when Triệu Đà absorbed it into his state of Nam Việt. However historian Sima Qian wrote that Âu Lạc was conquered later in 179 BCE, the year after the death of Empress Lü Zhi (Lã Hậu or Lữ Hậu, wife of founding Emperor Gaozu of Han). Triệu Đà rebelled against the Han Empire and administered Nam Việt as an autonomous kingdom, in effect creating for the first time the notion of a country for the indigenous inhabitants. Triệu Đà adopted the local customs and was reported with disdain by Han ambassador Lu Jia (Lục Giả) in 196 BCE to be squatting in court, wearing his hair in a bun, and dressing like the Việt people. Loosely governing Âu Lạc from Panyu (Canton), he left the sociocultural structures of the Lạc Việt tribes intact, and was recognized as the first Vietnamese king in Đại Việt Sử Lược (1377–1388), the oldest Vietnamese history book to survive to the present(11) though other historians, particularly anti-Chinese ones, considered him a foreign invader.

Chinese Colonial Abuses, the Third Factor

The country of Nam Việt was short-lived. Taken over in 111 BCE by Emperor Han Wudi (Hán Vũ Đế), it was divided into 9 commanderies, the 3 southernmost being Giao Chỉ (Red River Basin), Cửu Chân (Jiuzhen), and Nhật Nam (Rinan). Had Chinese governors (thái thú quận Giao Chỉ) been principled and compassionate administrators truly concerned for the wellbeing of the Việt people, there would have been no Vietnam ! Had they been respected and effective leaders like Governors Tích Quang (Hsi Kuang, 3-29 CE ?)(12), Nhâm Diên (Jen Yen, 30-34 CE) still honored in a Vietnamese temple(13,14), and Sĩ Nhiếp (Shi Xie, 187-226) popularly hailed as Sĩ Vương(15), the Lạc Việt land would have been absorbed into the Middle Empire !

But, the majority of Chinese administrators were misguided by the mentality of superiority typical of colonists and conquerors. Accounts of human rights abuses, taxation abuses, and forced Sinicization abound, resulting in a strong undercurrent of anti-Chinese feelings. This fueled multiple revolts, starting with the Heroines of Mê Linh Trưng Trắc and Trưng Nhị (Trưng Sisters, 40-43 CE), followed by Lady Triệu (248), Lý Bôn and his general Triệu Quang Phục (Anterior /Early Lý Dynasty 544-602), Mai Thúc Loan (Mai Hắc Đế, 722), Bố Cái Đại Vương Phùng Hưng (791-798), and Ngô Quyền who decisively defeated the Southern Han (Nam Hán) armada at the Battle of Bạch Đằng River in 938.

Nam Quan Pass, the Fourth Factor

With the advent of the Ngô Dynasty in 939 CE, the era of true independence and national identity for Vietnam had begun. The country extended north up to the Lào Kay (Cai) – Cao Bằng – Lạng Sơn mountains where the Nam Quan–South Gate– Pass is located. In 1076, Đại Việt (Great Viet, ancient name of Vietnam) was invaded by troops of the Song dynasty (nhà Tống), but General Lý Thường Kiệt stopped them(16) by rallying his troops with the famous quatrain viewed as the first declaration of independence of Vietnam :

Over mountains and rivers of the South nation reigns the South king ;
This is clearly determined in the Book of Heaven.
How dare you aggressors invade our land ?
Proceed and you will reap defeat and destruction.

A Qing delegation is coming out of the Vietnam side of Nam Quan Pass. The larger Chinese gate is seen in the background (circa 1900).

The mountains form a natural barrier against invasions from the north, allowing for progress and maturity of the young Vietnamese nation. By contrast, the destiny of the Zhuang (Choang, Tráng) people illustrates the importance of this geographical factor. Closely related to the Luoyue (Lạc Việt) of the Hồng Hà or Red River, the Zhuang of Guangxi were a major tribe of Triệu Đà’s Nam Việt, and had supported the Trưng Sisters’ uprising. Rock pictograms in red paint, left by the Luoyue, cover an 8000 square meter cliff surface of Huashan Mountain in Guangxi Zhuang Autonomous Region. China submitted the landmark to UNESCO for recognition as a World Heritage Site in 2008(17).

Over the centuries, large numbers of Han Chinese moved into the region, and the Zhuang were subjected to tremendous assimilation pressure. However, they are able to retain their identity and culture, still speaking their language and playing bronze drums at cultural festivals. They forced Communist China to create the Guangxi Zhuang Autonomous Region in 1958(18). Still, the Zhuang could not establish their own country. With a population of 15 million, they constitute the largest minority ethnic group in China, but only account for 32% of the Guangxi population, while Han Chinese make up 62%(19).

1800 to 2500 years old red rock paintings by the Luoyue on Huashan Mountain in Guangxi Zhuang Autonomous Region. The site was submitted to UNESCO for recognition as a World Heritage.
(Courtesy of Dr Nguyễn Xuân Quang – www.bacsinguyenxuanquang.wordpress.com)

Descendants of a Dragon and a Fairy, the Fifth Factor

In a strict sense, the Lạc Việt were one or several related tribes of the Bách Việt (Baiyue) of South China. According to studies of the Human Genome Organization (HUGO) Pan-Asian SNP Consortium(20,21) the first natives of Văn Lang (the semi-legendary nation of the ancient Vietnamese people) had migrated from the south. Some of the Australomelanesians or Austronesians (similar to indigenous Filipinos, Malays and Indonesians) colonized the Red River Basin(22), others went on further north about 80,000 years ago to what is now China. There, over scores of millennia, they developed a lighter skin and Mongoloid features. During and after the last glaciation (18,000-9000 BCE), many moved back south in search of a warmer climate, and mixed with the “locals”(23). They spoke in proto-Việt-Mường, an Austroasiatic language which morphed into the present Vietnamese vernacular after a millennium of Sinitic influence, whereas the Baiyue (and Luoyue) are believed to communicate in proto-Austronesian dialects similar to the ones still used by the aborigines of Taiwan, across the sea strait.

It is natural to wonder if there is ethnic and cultural continuity between the ancient settlers of the Red River Basin, cradle of Vietnam heritage, and the modern Vietnamese who won their independence after more than a thousand years of Chinese colonization. Specifically, between 600-200 years BCE, did the Red River Basin inhabitants fit exactly into the Baiyue (Bách Việt) or are we extrapolating Chinese records about the Baiyue to them ? If the latter theory turns out correct, the original Red River dwellers were not truly the Luo Yue /Lạc Việt.
The unfortunate confusion stems from first, the fact that these boat-riding and bronze drum casting Việt ancestors did not leave any written record of how or what they were calling themselves as they did not have any writing system, and secondly but most significantly, the desire of Đại Việt historians of the 13th and 15th centuries to promote the lofty origins of the Vietnamese at a time that they were battling formidable Mongol (or Sino-mongol) and Han northern invaders. This scenario, perhaps controversial, is quite plausible considering that the Red River Basin autochthones were characterized by the Đông Sơn culture. The geography of recovered Đông Sơn bronze drums covers ancient North Vietnam, Guangxi, Yunnan, and Sichuan /Tứ Xuyên or Southwest China, while the Baiyue primarily lived in Southcoastal and Southeast China, from Zhejiang to Guangdong Provinces.

In Imperial China and its Southern Neighbours, Dr. Nam C. Kim wrote : “To be sure, we have no solid evidence that the societies extant in the Red River plain during the Đông Sơn Culture period were ethnically similar to later Vietnamese-speaking populations in the region during the first and second millennia.”[24]

Pointing to a major influence from imperial China conquests and subsequent Sinicization, Dr. Erica Fox Brindley remarked “Cantonese, the language spoken in modern Hong Kong and Guangdong Province, as well as other neighboring areas, is referred to as the “Yue language,” even though it is primarily a Sinitic language, and not what the natives of the region would have spoken in early times.”[24a]

Linguistics seems to suggest that as Ma Yuan imposed Han Culture on the Đông Sơn Việt-Mường natives, they would split into 2 groups. Those who adapted to the rules and customs of the Chinese invaders, mixed with them, lived in or around urban citadels, evolving into the Kinh majority (metropolitans) by the end of the Tang Dynasty. The indigenes who retreated to the jungles and mountains retained most of their original language and culture. They became the highland minorities (người Thượng). Started in 2005 by Dr. Spencer Wells, the National Geographic’s Genographic Project shows that the majority of Vietnamese (người Kinh) has 57% Northeast Asian and 43% Southeast Asian DNA[25]. There is no evidence of genocide, mass starvation, vital migration (to Indonesia islands) or epidemics (from new viral infections like smallpox or bird flu) in Giao Chỉ. Sensibly, from the Red River “Dongsonian Lạc Việt” to the modern Kinh Vietnamese, over 2500 years, there are genetic continuity[25a] though diluted, linguistic evolution, and proud cultural inheritance.

The exalted origins of the Vietnamese, especially the legends associated with the mythical Hồng Bàng Dynasty(26), might have been oral tales for years, inspired from the Baiyue legends. They were given legitimacy by Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, a history book written in the 13th century by Lê Văn Hưu(27) and edited by Ngô Sĩ Liên in the 15th century with the clear goal of promoting Vietnamese pride and patriotism. Prior to Toàn Thư, there was no written mention anywhere of the God of Agriculture Thần Nông (Shennong), the dragon prince Lạc Long Quân and the fairy Âu Cơ as progenitors of the Vietnamese. When did the story originate will remain unresolved. The Lạc Việt could not have considered themselves descendants of the legendary first Three Rulers and Five Emperors of China, as they spoke a different language, stained their teeth black, chewed betel leaves and areca nuts, and practiced totemism and tattooing. Nonetheless, modern Vietnamese are quite proud of being the descendants of the Lạc Dragon Lord and the Fairy Âu Cơ. According to tradition, the beautiful Âu Cơ gave birth to a pouch(28) with 100 eggs that hatched 100 sons, the ancestors of the Bách Việt or 100 Việt tribes described by China historians.

Chinese Ambition, the Sixth Factor

China leaders somehow have always wanted to take over Vietnam, most likely because it was and still is a major rice producer. Indeed, the Chinese population has chronically been under the threat of famine until the advent of modern high-yield agriculture. Hampered by mountains around the Nam Quan Pass, Chinese troops frequently resorted to sailing down the coast. However, the Đại Việt people were water-oriented and the Chinese fleet was crushed twice at Bạch Đằng River.

The history of independent Vietnam is dotted by periodic Chinese occupations leading to the revolt of Lê Lợi, the Hero of Lam Sơn (Thanh Hóa Province, 1428), and the epic Tết victory of Emperor Nguyễn Huệ over Emperor Qianlong’s expeditionary army in 1789.

Four years after the end of the Vietnam War, in 1979 Communist China attacked its former ally, the Socialist Republic of Vietnam, to punish its invasion of Kampuchea still quivering from the Khmer Rouge’s “killing fields”(29). China occupied Nam Quan (South Gate) Pass(30) and acquired more frontier land in a 1999 border treaty kept secret until 2001 when it caused indignant protests from overseas Việt Kiều(31). Predictably, Chinese aggression always draws together the Vietnamese people, especially after China Navy harassed Vietnamese fishermen and conducted live ammunition drills as intimidation gestures in 2010 and 2011, and a Chinese oil rig was moved into Vietnam’s territorial waters /continental shelf in May-July 2014. The pressure on Vietnam leaders to escape from China’s orbit (thoát Trung) is building up, but two-way trade between China and Vietnam was $59 billion in 2014 ($29 billion deficit for Vietnam)(32).

France Colonialism, the Seventh Factor

From the 16th to the 19th centuries, European nations, with their superior industrial and military technology, transformed “underdeveloped” countries into their colonies. Indonesia became a colony of the Dutch, The Philippines of the Spaniards, and Vietnam (Indochina) of the French. Even gigantic India fell under British rule. Due to inhuman labor exploitation (e.g. in rubber tree plantations(33) or coal mines), European colonialism ironically became the driving force behind the emergence of nationalism as oppressed entities from tribes to nations quickly learned to fight on a united front.

Buoyed by Western ideals of freedom and democracy, toughened by a tradition of fighting invaders, and benefiting from the ease of communication afforded by its romanized national script quốc ngữ, the Vietnamese organized themselves to fight French colonialism. Their struggle for independence fueled a newly rediscovered sense of patriotism until the Vietnamese Communists, actively trained and tutored by the Chinese Communists of Mao Zedong (Tse-tung), following Communist International (Comintern) directives, eliminated their Nationalist allies to seize power(34). In May 1954, the French were defeated at Dien Bien Phu but Vietnamese identity and unity were further damaged when Vietnam was divided by the Geneva Conference into two states. One million people left the communist North to resettle in the newly created Republic of [South] Vietnam under President Ngô Đình Diệm. The ensuing 20-year Vietnam War was a dark period which saw again Vietnamese fighting Vietnamese.

Japan Successes, the Eighth Factor

In the 19th century, while the Chinese Qing Empire was humiliated by occidental powers including the United States, Emperor Mutsuhito (reign 1867-1912)(35) embarked on an ambitious transformation of Japan known as the Meiji Restoration. With the Meiji (Enlightened Rule or Minh Trị) era, Japan adopted Western educational, economic, military, political and industrial systems, and became a World power within a generation. This was reflected by the stunning victory of the Japanese Navy in May 1905(36) at the Tsushima Straits. The Russian Second Pacific Squadron with 38 ships was annihilated after it had made an exhausting 18,000-mile journey around the Eurasian continent.

Historically, Japan played an active role in ending French colonialism in Vietnam. As World War II started, Japanese forces easily swept through Indochina in 1940-41. With France defeated by Nazi Germany in 1940, its Axis-collaborationist Vichy government politically was allied to Japan. Despite full military control, Japan conveniently allowed Vichy France to continue administering Vietnam. Of note, since 1937, there was total war between Japan and the Republic of China with Chiang Kai-shek leading the Chinese United Front. Wary of the French loyal to Charles de Gaulle’s Free France and the Vietnamese communists armed to fight the Japanese by Mao Zedong, a Chinese United Front member, Japan actively recruited and protected anti-French, anti-communist (nationalist) Vietnamese, such as Ngô Đình Diệm, Huỳnh Phú Sổ, founder of the Hòa Hảo Buddhist sect, Cao Đài leaders like Trần Quang Vinh, and historian Trần Trọng Kim. With the liberation of Paris by the Allies in August 1944, Japan could no longer depend on the cooperation of the French colonial government for its war effort. In this ambience of distrust, both Japanese and French forces in Indochina hoarded rice, so contributed, with a poor crop and reduced shipping of rice from the south (due to the threat of American planes and submarines), to the famine that killed a million people in Tonkin in the winter of 1944-45. On March 9, 1945, in a bloodless coup, Japan deposed the French and pronounced Vietnam independent as the new Empire of Vietnam. Under Japan’s auspices, Emperor Bảo Đại voided the 1884 Patenôtre Treaty, and declared Vietnam Independence on March 11, 1945. Scholar Trần Trọng Kim was appointed prime minister. After Japan surrendered on August 15, 1945, while still confining French officials, its troops ceased to maintain local order as they prepared to move to city ports for repatriation. Without foreign restraints, a jubilant semi-chaos ensued, especially in Hanoi, which was later called the August Revolution by the Indochinese Communist Party, as a parallel to the Russian Bolshevik Red October Revolution of 1917.

The aura of invincibility of the Empire of the Rising Sun at the beginning of World War II and the remarkable manufacturing, electronic and automotive successes of modern Japan constitute a source of Asian pride and a riveting inspiration for the Vietnamese.
Tragically on March 11, 2011, a massive, up to 133-foot-high tsunami triggered by a 9.0 offshore earthquake destroyed most of Japan northeast coast of Tōhoku. The loss of cooling capacity crippled several nuclear reactors in Fukushima, resulting in a partial meltdown and release of radioactive material. The discipline displayed by the Japanese people after the double natural disasters only adds to the admiration the world already has for them.

Vietnam Unification, the Ninth Factor

Vietnam was unified under communist rule with the fall of Saigon on April 30, 1975. The initial years were a true occupation and exploitation of the former South Vietnam, resulting in the 2-million people Vietnamese diaspora. The size of the exodus was also proportional to the communist Party corruption : full Vietnamese families were allowed to assume Chinese ancestry identity and leave in semi-official exile trips in exchange for solid gold. If they were caught at sea, they would scour for more gold to get out of prison or for a chance on another risky journey… In the late 1980s, the pace of education and knowledge quickened worldwide thanks to the openness of the Internet. However the quality of life failed to improve under communism which disappeared in Eastern Europe and in Russia by the early 1990s. In Asia, China and Vietnam struggled against democratic aspirations, but successfully instituted free market economy and individual ownership reforms. Two decades after changing course with its “Đổi Mới – Renovation” strategy in 1986, Vietnam became a member of the World Trade Organization (WTO) in 2006. In 2011, Vietnam’s nominal GDP reached $121.6 billion, with a GDP per capita of $1328.6.(37) However the year before, the International Federation for Human Rights (FIDH, Fédération internationale des ligues des droits de l’Homme) reported that “the opulent lifestyle of many Communist Party cadres and government officials contrast starkly with the poverty of ordinary people in Vietnam, where 77 percent of the workforce is employed in agriculture and the unofficial economy.”

In 2011, autocratic governments around the world felt the pressure of the “Arab Spring revolution,” a grass root movement demanding freedom and democracy that rapidly succeeded in Tunisia and Egypt, then spread to other Arab countries such as Libya and Syria. Libya’s dictator Gaddafi was killed in October 2011. By fall 2014, the 3-year old Syrian civil war death toll exceeded 200,000, and the US started bombing the vicious ISIS (Islamic State in Iraq and Syria) forces. Though Vietnam is still a police state, the Viet nation is strong as its people, in the homeland(38) or overseas,(39) remain determined to preserve their cultural and geographical patrimony in the face of China as a threatening, even “bullying” superpower.

In March 2015, Vietnam firmly rejected a US request to stop supporting Russian bombers at Cam Ranh Bay as its defense was enhanced with planes, submarines, and ships bought from Russia. At the same time, Vietnam boosted its diplomatic ties with Japan, the Philippines, and the US to show its will to counter China in Vietnam’s East Sea. What the future holds will soon depend on a new generation of Vietnamese leaders who watched the “War on Terror” against Al Qaeda but did not experience the emotions of the Cold War or the “American War.” Hopefully, in a process akin to the smooth democratization of Myanmar (Burma) in early 2012, from within Vietnam, communist totalitarism will be replaced in a democratic, non-violent way, or will be transformed by wise and forward-thinking leaders to accept political pluralism and more freedom for the people.

American Partnership, the Tenth Factor

Since normalization of relations with the US and full ASEAN membership in 1995, Vietnam’s image has improved. Vietnam was visited by Presidents Bill Clinton in 2000 and George Bush in 2006. In 2009, the US ranked first among investors in Vietnam with $9.8 billion pledged. Two-way trade between the US and Vietnam reached $18.3 billion in 2010(40) and $36.322 billion in 2014 (US Census Bureau). Vietnam has been a larger trading partner with the US than some NATO members such as Sweden, Turkey, Norway, Denmark, Greece and Portugal.(41) Unconceivable a decade earlier, the former enemies conducted joint military exercises in the South China Sea – East Sea for Vietnam – in August 2010.)(42) In October 2012, Vietnamese officials were flown aboard the USS George Washington nuclear aircraft carrier cruising with its battle group the disputed waters of the South China Sea in a show of US Navy might.(43)

Việt Kiều, the Eleventh Factor

Vietnamese living overseas stay fiercely “nationalist” but their political actions have remained ineffective in liberalizing the regime “at home.” Since the end of the Vietnam War, more than two thirds of Vietnamese have been born.(44) A young generation of Vietnamese expatriates raised and educated outside of Vietnam, is emerging, who knows about the War only through harrowing personal accounts from former refugees, or by learning contemporary history on television screens(45) and in books. More than ever, this generation is eager to learn about its roots and to participate in volunteer work or economic and technical ventures in Vietnam. While doing so, they cooperated with local authorities using some form of bribes, raising thorny issues with their elders who had experienced indescribable misery. As political change in Vietnam remains elusive, the question becomes to “pay and play” or to “say nay and pray.”(46) Constituting 3.3 % of the total Vietnamese population, Việt Kiều contributed in cash $8.26 billion(47) or 8% of Vietnam GDP estimated by the World Bank at $103.6 billion in 2010(48) ($171.39 billion in 2013).

In a 2008 Tết article, Andrew Lam wrote(49) “Vietnam has reached an ideological dead end – but in the private sphere, new political thoughts are being formed.”(50) He concluded “The Vietnamese living abroad is no longer exiled from his homeland, but he risks being sidelined if he doesn’t adapt to the new realities of 21st century Vietnam.” Lam’s article was addressing the Vietnamese émigrés, yet the key to economic and political development should remain in Vietnam. Maybe the hope is for the Việt Kiều to help uncover that key or to play a major role in the next Sino- Vietnamese confrontation.

Certainly, expatriates do not feel sidelined. Indeed, they have been active in promoting Vietnamese art, music and culture, in teaching the quốc ngữ written script, in improving health in their community, in enhancing freedom of religion and human rights through articles(51) and appeals(52). They continue to cook typical Vietnamese meals and to organize frequent class reunions to reminisce and preserve their bond to the motherland. They could have actively participated in political demonstrations. In 2008 in Paris, France, they joined to oppose China’s Tibet policy during the Olympic torch relay and to commemorate the 60th Anniversary of the Flag of the State of Vietnam (yellow with 3 horizontal red stripes). In Westminster, California, they protested an art work figuring three foot-spa tubs (used in nail salons) painted in yellow with three red stripes.(53) They had also been competing in scientific, academic, financial, industrial, technological, political, military, public service or health arenas, becoming leading scientists, able CEOs and bankers, successful entrepreneurs,(54) university full professors, consul general, US Congress representative, US Navy ship commander or Army general, state senator or assemblyman, county supervisor, city mayors.

On the eve of the 40th anniversary of the Fall of Saigon, Mr. Lam assessed : “From opening wine shops to creating startups, from running high-tech companies to working as executives for major foreign companies in Vietnam, from starting art centers to making movies or teaching at universities, expats [Việt Kiều] have become active agents in changing Vietnam’s destiny.”(55)

Melting Pot, the Twelfth Factor

The US Census 2000 registered an interesting finding among Asian Americans : 30.7% of Japanese Americans reported mixed racial ancestry while “Vietnamese wereleastlikelyto be in combination with one or more other races or Asian groups. Of all respondents who reported Vietnamese, only 8.3% reported one or more other races or Asian groups.”(56) In 2010, their number went up to 10.9%.(57)

Despite hiccups (Ferguson riots, Missouri, Aug 2014, Baltimore riots, Maryland, April 2015), American society has progressed to a post-racism era. On America’s affluent playgrounds, Caucasian, Asian and African American girls and boys happily play with each other. They instinctively behave as belonging to only one race, the human race. The political ascension of Senator Barack Obama during the 2008DemocraticParty nomination campaign is further evidence. An African American, Senator Obama was endorsed by The San Francisco Chronicle,(58) New York Post(59) and Los Angeles Times.(60) The 2008 global economic woes catapulted Senator Obama over Senator John McCain in opinion polls across the nation the week before the first presidential campaign debate. Senator Obama kept his lead and on November 4, 2008, history was made as the first Black American was decisively voted as the 44th President of the United States, demonstrating to the world the genuine strength of American Democracy. This was again confirmed on November 6, 2012 when President Obama was reelected, and April 29, 2014 when Donald Sterling, owner of the Los Angeles Clippers, was banned for life from the National Basketball Association (NBA) after a secret recording of racist remarks on Black people − perhaps in a private moment of irate jealousy − was widely broadcasted.

It would be interesting to follow the lives of Việt Kiều in Europe, Australia and America. In December 2008, Louisiana voted Joseph Ánh Cao as the first Vietnamese American US Representative. Since September 2012, Thanh-Hải Ngô (b. 1947) serves as the Ontario Senator on the Canada Senate. Born in 1954 in Quảng Trị, South Vietnam, Hiếu Văn Lê is the first Asian Governor in the history of the Commonwealth of Australia when he took office as the 35th Governor of South Australia on September 1, 2014. The Two or More Races Asian population is one of the fastest-growing groups in the US, increasing percentage wise by 50% between 2000 and 2010 (by 31% for Vietnamese Americans). In comparison with the US population, the US Census data, a decade apart, show :(61)

US Census 2000 and US Census 2010

Asian total : % US population 4.2 (11.9 million) / 5.6 (17.3 million)
Alone % 3.6 (10.2 million) / 4.8 (14.7 million)
Mixed race % 0.6 (14% of Asian Am) / 0.9 (16% Asian Americans)
Vietnamese 1,737,433
Alone : 1,122,528 (0.4% of US population) / 1,548,449 (0.5% of US or 38% increase)
Mixed race : 8.3% of Vietnamese Americans / 10.9% of Vietnamese Americans

Vietnam War Memorial, Westminster, California

Of significance, the Vietnamese diasporas, originally defined by their fierce anticommunism, have evolved to a more realistic identity within their adoptive countries as the partnership between the US and totalitarian Vietnam has expanded with the July 2015 visit to the White House of the Vietnam Communist Party secretary-general, clearly to counter the Chinese threat in the South China Sea − Vietnam’s East Sea or Biển Đông. Decades after the end of the war, as memories are fading away–with time and the emergence of new generations born and raised in a free and plentiful society, the aging first-generation refugees have devoted themselves to reconstruct and narrate their life experiences, and to create lasting signposts in their communities. Realizing that American memorials to the Vietnam War simply omit to recognize the sacrifices of countless brave ARVN combatants, the former refugees have used their economic and political clouts to set up museums and erect monuments to preserve and transmit the diaspora historical and cultural heritage. Thus, one can visit memorials and statues honoring the plight of the Boat People (worldwide), Vietnamese historical heroes (Scholar Nguyễn Trãi in Québec, Canada, and General Trần Hưng Đạo in Little Saigon, Westminster, California), and most notably, American and South Vietnamese comrades-in-arms standing side by side in Houston, Texas, and Westminster, California.

Conclusion

The evolution of Vietnamese identity closely mirrors the country’s 4000 years history, from the legendary Lạc Long Quân – Âu Cơ to the historical Trưng Sisters heroines, thousand years of Chinese domination, and modern era of true independence inaugurated by King Ngô Quyền. Over 40 years after the end of the Vietnam War and the unification of Vietnam under communism, that evolution still continues both in Southeast Asia and across the world.

Jan 2, 2008 – Jul 12, 2011 – Jul 25, 2013 – Nov 25, 2014 – Jan 16, 2016
Chat V. Dang, MD

.

1. “The Ten Thousand Day War” 1980 mini TV series written by Peter Arnett.
2. Analyzing the diplomatic note of North Vietnam Prime Minister Phạm Văn Đồng to Chinese Premier Chu An Lai (Zhou Enlai) dated September 14, 1958.
3. The actual shooting lasted about 40 minutes.
4. http://www.americanchronicle.com/articles/viewArticle.asp ?articleID=4077 accessed 1-11-2008.
5. http://the-diplomat.com/2010/09/15/why-a-us-vietnam-nuclear-deal/ accessed July 11, 2011.
6. US-Vietnam Nuclear Cooperation Agreement : Issues for Congress. http://fas.org/sgp/crs/nuke/R43433.pdf accessed August 18, 2014.
7. Bellwood P. Vietnam and the Prehistory of Eastern Asia – a Multidisciplinary Perspective on the Neolithic, 2012 : p. 55.
8. http://www.chinahistoryforum.com/lofiversion/index.php/t5367.html accessed 1-02-2008.
9. Lại Văn Tới. Cổ Loa : the Capital of the Âu Lạc Kingdom in the 3rd and 2nd Centuries BCE. Proceedings of the International Colloquium “The Archaeology of Viet Nam” 2012 : 129-156.
10. http://www.viethoc.org/phorum/read.php ?10,7679 accessed 12-03-2007.
11. http://www.viethoc.org/eholdings/sach/dvsl.pdf accessed 1-08-2008.
12. http://vi.wikipedia.org/wiki/T%C3%ADch_Quang accessed 1-08-2008.
13. http://vnthuquan.net/diendan/tm.aspx ?m=266827 accessed 1-08-2008.
14. http://vi.wikipedia.org/wiki/Nh%C3%A2m_Di%C3%AAn accessed 1-08-2008.
15. Việt Nam Sử Lược by Trần Trọng Kim ; http://www.vietlibrary.com/VNSL7.htm accessed 1-08-2008.
16. http://www.vps.org/article.php3 ?id_article=203 accessed January 15, 2008.
17. http://whc.unesco.org/en/tentativelists/5340 accessed March 12, 2011.
18. http://en.wikipedia.org/wiki/Guangxi_Zhuang_Autonomous_Region accessed January 5, 2008.
19. http://en.wikipedia.org/wiki/Guangxi accessed January 8, 2013.
20. http://news.bbc.co.uk/2/hi/8406506.stm accessed Oct 2, 2011.
21. http://www.ncbi.nlm.nih.gov/pmc/articles/PMC3121791/pdf/pone.0021451.pdf Accessed 10-17-2015.
22. http://www.tuvy.com/Countries/vietnamese/origins_of_the_vietnamese_people.htm accessed Dec 2, 2007.
23 Bellwood P. Vietnam and the Prehistory of Eastern Asia. Perspectives on the Archaeology of Vietnam. 2012 ;p.55.
24. Kim NC. Ancient State Formation at the Southern Edge of Sinitic Civilization. ISEAS ; Singapore. 2015 ; p.52.
24a. Brindley EF. Ancient China and the Yue. Cambridge University Press. 2015 ; op.cit.
25. https://genographic.nationalgeographic.com/reference-populations/ accessed January 8, 2016.
25a. Tai Q. Nguyen. https://drive.google.com/file/d/0B5HQ4J7Ib2ufa3pwUTRmRzU0VUE/view pp.42-58. 3/3/2016.
26. http://vnthuquan.net/truyen/truyen.aspx ?tid=2qtqv3m3237ntn3n1n2n31n343tq83a3q3m3237nvn accessed 1-04-2008.
27. The original Đại Việt Sử Ký completed in 1272 by Lê Văn Hưu is lost to posterity, but was frequently quoted verbatim in the ĐVSK Toàn Thư expanded edition of the 15th century.
28. Đồng bào (compatriots) literally means “[from the] same pouch.”
29. http://www.historyplace.com/worldhistory/genocide/pol-pot.htm accessed 1-11-2008.
30. http://hqvnch.net/default.asp ?id=632&lstid=178 accessed 1-07-2008.
31. http://www.pttndt.org/movement/Khang%20thu%20PTClaim%20.htm accessed 1-06-2008.
32. http://finance.yahoo.com/news/vietnam-devalues-dong-1-pct-025223457.html accessed Aug 10, 2015
33. Gibiat, Balthazar. La sève amère de l’hévéa. in L’Indochine. Géo-Histoire No 14. Avril-Mai 2014. pp. 58-67.
34. http://www.vietquoc.com/history.htm accessed 1-08-2008.
35. http://en.wikipedia.org/wiki/Emperor_Meiji accessed 1-08-2008.
36. http://en.wikipedia.org/wiki/Russo-Japanese_War accessed 1-08-2008.
37. http://en.wikipedia.org/wiki/Economy_of_Vietnam#cite_note-vnexpress.net-6 accessed March 22, 2012.
38. 87 million http://en.wikipedia.org/wiki/Vietnam accessed 1-31-2008.
39. About 3 million http://en.wikipedia.org/wiki/Overseas_Vietnamese accessed 1-31-2008.
40. http://www.monde-diplomatique.fr/2011/06/MONTHEARD/20703 accessed July 18, 2011.
41. http://en.wikipedia.org/wiki/Foreign_trade_of_the_United_States accessed July 6, 2011.
42. http://www.csmonitor.com/World/Asia-Pacific/2010/0812/US-Vietnam-ties-strengthen-with-military-exercisesto- China-s-chagrin accessed July 7, 2011.
43. http://abcnews.go.com/International/wireStory/us-aircraft-carrier-cruises-disputed-seas-17522938 accessed 10-20-2012.
44. http://www.monde-diplomatique.fr/2007/12/POMONTI/15424 Accessed 2-12-2008.
45. “The Ten Thousand Day War” 1980 mini TV series written by Peter Arnett.
46. For changes.
47. http://www.voanews.com/vietnamese/news/vietnam/vietnam-oversea-remittances-01-02-2012-136524808.html/ accessed 3-22-2012.
48. Accessed 3-22-2012 http://siteresources.worldbank.org/DATASTATISTICS/Resources/GDP.pdf
49. http://news.newamericamedia.org/news/view_article.html ?article_id=28266d2b2849b31420bbdadf451717dc accessed 2-07-2008 (Tết Mậu Tý).
50. http://www.bbc.co.uk/vietnamese/forum/story/2008/02/080213_tregiamangmoc.shtml accessed 2-15-2008.
51. http://www.montagnard-foundation.org/opinion.html accessed 2-14-2008.
52. http://www.geocities.com/xuannhi2003/ accessed 2-11-2008.
53. http://www.latimes.com/news/local/orange/la-me-protest12feb12,1,7444911.story ?ctrack=4&cset=true accessed 2-12-2008.
54. http://www.sfgate.com/cgi-bin/article.cgi ?f=/c/a/2008/07/05/BUEU11HJ4L.DTL accessed 7-06-2008.
55. http://america.aljazeera.com/articles/2015/4/29/vietnam-in-us-orbit.html accessed April 29, 2015.
56. http://www.census.gov/prod/2002pubs/c2kbr01-16.pdf accessed 1-30-2008.
57. http://www.census.gov/prod/cen2010/briefs/c2010br-11.pdf accessed 6-19-2012.
58. http://www.sfgate.com/cgibin/ article.cgi ?f=/c/a/2008/01/14/EDendorsements14.DTL&hw=endorses+obama&sn=086&sc=066 accessed 2-03-2008.
59. http://thecaucus.blogs.nytimes.com/2008/01/30/new-york-post-endorses-obama/ accessed 2-2-2008.
60. http://www.latimes.com/news/nationworld/nation/la-na-endorse2feb02,1,4682123.story ?ctrack=1&cset=true accessed 2-2-2008.
61. http://www.uscensus2010data.com/57-census-2010-data accessed July 6, 2011.

Catégories
Prose

Collège Français de Nha Trang dans les années 60 – 70

Truong Bich Diep (CFNT)

.

Collège Francais de Nha Trang (1962)

.

De retour à Nha-Trang, aucun ancien élève ne peut s’empêcher de faire un détour par notre ancienne rue Bá-Đa-Lộc, maintenant appelée Lý-Tự-Trọng. Hélas, notre Collège n’est plus. Il a bien changé physiquement et abrite maintenant trois établissements d’éducation : un jardin d’enfants de face, une école de formation des maîtres sur le côté et à l’arrière, là où se trouvait le pavillon du Directeur, une résidence pour étudiants.

N’oublions pas que l’entrée principale du Collège n’a donné sur la rue Bá-Đa-Lộc que jusqu’aux alentours de 1961-62, date à laquelle l’armée américaine s’installa juste devant. Le jardin de la grande villa en face du Collège vit des immeubles s’ériger en son sein, des barbelés entourer son enceinte et une partie de la rue Trần Hưng-Đạo interdite d’accès et surveillée par la police militaire américaine.

Notre collège paisible fut soudainement proie au va-et-vient incessant des jeeps, à de la musique rock à hauts décibels émise dès le milieu de l’après-midi et des soldats américains s’interpelant et riant bruyamment du haut de leurs quatre ou cinq étages. Non, ce n’était pas une caserne de soldats, ni l’état-major de l’armée américaine ; celui-ci s’est installé au Grand Hôtel, ravissante bâtisse coloniale entourée d’un grand jardin à la française, donnant sur la grande avenue Duy-Tân (maintenant Trần Phú), face à la mer. C’étaient probablement des bureaux avec, en bordure de la rue Bá-Đa-Lộc en face du Collège, une résidence pour officiers et sous-officiers et leur mess au dernier étage.

Est-ce à la demande de l’armée américaine ou simplement par une décision de la Direction du Collège, les élèves, leur vélo et les rangées de cyclo-pousses qui les amenaient et venaient les chercher, ont dû déménager sur la rue Trần Hưng-Đạo où se situa dorénavant l’entrée du Collège. D’ailleurs, ces moyens de locomotion si pratiques, qui pouvaient transporter jusqu’à quatre enfants (dont deux assis sur une planche en bois) ne firent pas long feu : nos « chauffeurs » étaient plus intéressés à courir après la clientèle des riches GI que de nous transporter au mois, ce qui était fort compréhensible.

Le Collège a eu l’occasion d’accueillir en son sein quelques enfants d’officiers américains. Ils n’ont effectué qu’une année scolaire ou deux, mutation de leur père oblige, mais les brassières qu’ils portaient sur leurs dents (appelées maintenant appareils dentaires) nous ont beaucoup impressionnés !

Un jour de septembre 1966, ce fût l’ébullition. Le Président De Gaulle, de visite à Pnom-Penh, prononça un discours dans lequel il dénonça vivement la guerre du Viêt-Nam et prôna la neutralité du pays. Les réactions ne se firent pas attendre. Les manifestations anti-françaises surgirent dans tout le Sud Viêt-Nam. Suivirent des mesures plus catégoriques dont certaines nous ont particulièrement marqués : frein aux importations des produits venant de France ; conseils assez persuasifs aux jeunes de ne point aller dans le pays de Molière pour leurs études supérieures ; vietnamisation progressive des écoles françaises restantes sur le territoire.

Des motos Honda ou Suzuki, plus légères, plus maniables, moins bruyantes et surtout moins coûteuses ont ainsi déferlé sur la ville et remplacé avantageusement les VéloSolex, Mobylettes ou Vespas. De couleur rouge, verte et bleue, elles étaient bien plus gaies. Seules les petites cylindrées (50 et 90 cc) étaient autorisées car il ne fallait pas qu’elles roulent trop vite ; et tout passager était obligé de s’asseoir les jambes sur le côté, mesure anti-terroriste par excellence mais quel spectacle !

Pendant des années, bon nombre de jeunes ayant obtenu leur baccalauréat français, sont partis continuer leurs études en Belgique, Suisse ou au Québec, faute de pouvoir les effectuer en France. Et ce qui fut dramatique pour nous tous, dès l’année scolaire 67-68, les classes primaires passèrent à l’éducation mixte et le Collège recula progressivement d’une classe chaque année au profit de l’école Hàn-Thuyên.

En parallèle, une autre réglementation, étroitement liée à la situation politique du pays, a influencé indirectement l’effectif du Collège : la mobilisation générale des hommes de 18 à 45 ans. Etait appelé à joindre l’armée tout jeune en retard sur ses études, fut-ce d’une seule année. Dès son annonce, elle entraîna une véritable hémorragie dans les classes supérieures du Collège, les parents s’empressant de transférer vers les écoles vietnamiennes leurs garçons qui avaient été obligés de redoubler dans les petites classes (à l’époque, le redoublement n’était point une mesure d’exception, bien au contraire).

L’évaporation s’est également faite sentir chez les filles, le Collège n’offrant que la section D (Sciences naturelles) à partir de la classe de Seconde. C’est ainsi que l’unique classe de Première de l’année 1969-70 s’est retrouvée avec 18 élèves dont seulement 3 garçons !
Le Collège a accompagné les évolutions politiques du pays et vécu bien de turbulences. Combien de temps a-t-il tenu après 1975 ? C’est peut-être le seul des principaux établissements scolaires de Nha-Trang à subir une telle métamorphose physique alors que le lycée voisin, Võ Tánh, n’a pas pris une seule ride. .

Bich Diêp

.

Catégories
Prose

Chuyện Khỉ năm Thân

.

Dang Tien (BP60)

.

Miệt Bặc Liêu, Cà Mau có câu hát, về sau phổ biến khắp miền Nam, rồi lan truyền khắp nước :

Tháng ba cơm gói ra Hòn,
Muốn ăn trứng nhạn phải lòn Hang Mai.

Nhiều người không hiểu chính xác, cho rằng Hang Mai có nhiều hoa mai thơ mộng, hay nhiều rắn hổ mai tàn độc. Thật ra, « mai » tiếng địa phương có nghĩa là « khỉ ». Hang Mai tức là « hang của loài khỉ ». Phi Vân đã giải thích như vậy, ngay trang mở đầu cuốn phóng sự Đồng Quê, giải thưởng hội Khuyến Học Cần Thơ năm 1943. Và ông ấy miêu tả căn cơ :
« Kinh Hang Mai ở làng Khánh Lâm, Cà Mau, bắt đầu từ kinh Biện Nhi trổ ra Tiểu Dừa. (…) Ở hai bên bờ người ta có thể gặp những con trúc, rái, kỳ đà, chồn, ong mật và vô số cá ». 1
Dĩ nhiên là nhiều khỉ. Từ điển phương ngữ Nam Bộ của Nguyễn văn Ái, 1994, cũng có ghi chữ mai nghĩa là khỉ.

Không biết vì lý do gì, và từ thời nào, trong tiếng Hán Việt, người ta phát âm chệch từ khỉ thành khởi (cũng như quý thành quới) : ngày nay ta nói khởi nghĩa, khởi hành, nhưng các từ điển xưa ghi là khỉ hành, khỉ nghĩa. Trong khi đó, trong tiếng thuần Việt, thành ngữ dân gian vẫn nói : khỉ khô khỉ mốc, khỉ ho cò gáy, rung cây nhát khỉ. Và thơ Tú Xương có câu :
Ới thi ơi là thi
Ới khỉ ơi là khỉ

Không rõ từ khỉ phát âm chệch thành khởi có liên quan gì đến tên loài động vật không. Chỉ biết rằng ở Việt Nam, khi đưa ra lý thuyết khỉ là thủy tổ của loài người, thì có sử gia đã dùng từ « hầu nhân » để tránh chữ chính xác là « người khỉ » – ngày nay người ta dùng chữ « người vượn » – thân thuộc hơn, nhưng cũng là tránh chữ Khỉ.

Hầu là Khỉ, giai thoại kể lại : vào thời Trịnh Khải, 1783, thế lực Chúa Trịnh đang suy tàn, nhưng vẫn còn kẻ nịnh bợ. Đặng Kim đã làm đến tước hầu, mà còn xin làm con nuôi nhà Chúa, đổi tên là Trịnh An. Một hôm, trên tường vôi nhà Hầu, có người đến vẽ một cây cổ thụ đang xiêu đổ, lá cành trơ trụi, gốc rễ ngả nghiêng. Trên chạc có con khỉ đang nằm ngủ, bên cạnh câu thơ nôm : _ Khỉ ơi tỉnh dậy đi thôi
Đừng chờ cây đổ, đi đời nhà mi.
Hầu tỉnh ngộ, từ quan, lấy lại tên cũ. Về sau, khi Trịnh Khải đổ, ông tránh khỏi nạn cháy nhà vạ lây.

Trong thi ca, từ khỉ ít được dùng, vì không « thi vị », gợi ý mắng mỏ. Thỉnh thoảng mới gặp một câu hiện thực như trong cảnh chùa Hương của Nguyễn Nhược Pháp : bao nhiêu là khỉ ngồi. Đinh Hùng tiếp xúc với rừng núi Việt Bắc, vùng Bắc Kạn đã tả không khí hoang dã thời 1940 :
Ta mê tiếng vượn sầu muôn kiếp
Chim núi cầm canh, hoẵng gọi bầy
(…)
Rồi những đêm sâu, bỗng hiện về
Vượn lâm tuyền khóc rợn trăng khuya

Hoặc tiếng vượn có tính cách tượng trưng, trong hoang tưởng một trời tình thái cổ :
Trải sông nước vượt qua từng châu thổ
Ta đến đây nghe vượn núi kêu sầu.

Tính cách tượng trưng còn rõ nét hơn nữa ở hình tượng Đười Ươi trong thơ Bùi Giáng, có khi ông tự xưng là Đười Ươi Thi Sĩ. Đười Ươi ở đây, là hoài vọng con người tiền sử, tâm hồn « dã nhân » chưa tiêm nhiễm tập tục, lề luật và thành kiến :
Đi về giũ áo đười ươi
Đăm chiêu khách địa từ người tặng ta

Nhưng rồi trong một hoàn cảnh xã hội khác, Bùi Giáng lại mặc lại xiêm lốt đười ươi :
Ấy là thơ thuở chưa điên
Ở trong dấu ngoặc quàng xiêng reo cười
Bây giờ xoang điệu đười ươi
Diệu hoa lầu các ngậm ngùi dấn thân

Trong trí tưởng sáng tạo của nhà văn, con vượn có khi là một hình tượng đẹp. Trong Chùa Đàn, 1946, mà nhiều người xem như là đỉnh cao của nghệ thuật Nguyễn Tuân, người phụ nữ lý tưởng tên là Sấu Viên – Vượn Gầy. Nàng chết sớm trong một tai nạn xe lửa, trên chuyến xe vu quy về nhà chồng, làm chủ ấp Mê Thảo. Người chồng tuyệt vọng, cho cất một thứ rượu tên Mê Thảo Hầu, rồi một thứ rượu khác tên Ức Sấu Viên – Nhớ Vượn Gầy – và cuồng điên trong men Rượu Tương Tư.
Nàng tên như thế vì có đôi cánh tay dài. Và có lẽ từ đó mà về sau nhân vật Cổ Giả Trường, người hùng trong vở kịch Thành Cát Tư Hãn, 1961, của Vũ Khắc Khoan, đã có đôi « tay vươn ra như tay vượn » : Vũ Khắc Khoan thân thiết và chịu ảnh hưởng Nguyễn Tuân.

Trong văn học Việt Nam cổ điển, tên Vượn đã xuất hiện rất sớm, tự bình minh của chữ Nôm đời Trần, trong bài Phú vịnh chùa Hoa Yên trong Thiền Tông Bản Hạnh. Bài này được gán cho thiền sư Huyền Quang (1254-1334), tả cảnh chùa ở núi Yên Tử :
Chim óc (=gọi) bạn, cắn hoa nâng cúng
Vượn bồng con, cời cửa nghe kinh

Cảnh Vượn bồng con là một hình ảnh văn chương, nhưng cũng có thể có thực, vì núi rừng thời ấy nhiều khỉ. Nhà thơ khoa bảng Nguyễn Trung Ngạn (1289-1370) cùng thời đã tả cảnh Chùa Long Động núi Yên Tử :

Cách lâm hữu hận viên đề nguyệt (a)
Ỷ tháp vô ngôn tăng đối san (b)

Dịch :
Tựa tháp không lời – sư ngắm núi (b)
Cách rừng u hận, vượn gào trăng (a)

Bài phú cổ ấy trong Thiền Tông Bản Hạnh, còn có một hình ảnh vượn khác, nhưng lần này có tính cách điển cố :
Chẳng những vượn hạc thốt thề
Lại phải cỏ hoa thuể thỏa

Vượn và hạc biểu trưng cho tâm hồn quân tử, theo chuyện Dương Hựu đời Tống , một người phóng khoáng chỉ làm bạn với vượn và hạc ở chốn lâm tuyền, nơi tu hành, ẩn dật.

Trong tập thơ Nôm đầu tiên của nước ta, Nguyễn Trãi (1374-1442) đã tả cảnh nhà mình :
Cửa song giãi xâm hơi nắng
Tiếng vượn vang kêu cách non

Như vậy, thời ấy trong thực tế, vượn còn sống gần với người. Và cạnh đó, Nguyễn Trãi nhiều lần dùng chữ viên hạc theo điển cố : _ Thề cùng viên hạc trong hai ấy
Thấy có ai han chớ đãi đằng

Han : nghĩa là hỏi han
Ý nói : chớ có thiết tha với những quan hệ xã hội

Vào giữa thế kỷ XVI, trong một bài phú tả cảnh ẩn dật miền rừng núi Tuyên Quang, Nguyễn Hãng cũng đã dùng chữ vượn theo nghĩa hiện thực :
Vượn chào, hòa khướu hót, cách ngàn đưa khúc xướng khúc ca
Và theo điển cố :
Bạn viên hạc quen tìm, hoa cười đón khách
Tịch Cư Ninh Thể Phú

Mà không cứ gì miệt núi rừng Yên Tử, Côn Sơn, Tuyên Quang mới có khỉ, vượn. Vào cuối thế kỷ 18, giữa kinh thành Thăng Long, « mỗi khi đêm thanh cảnh vắng, tiếng chim kêu vượn hót ran khắp bốn bề » theo Vũ Trung Tùy Bút của Phạm Đình Hổ (1768-1839). Nhưng đây là vượn do Chúa Trịnh nuôi trong phủ Chúa. Tuy nhiên, mãi đến đầu thế kỷ 19, Nguyễn Công Trứ (1778- 1858) còn tìm thấy « đất kinh kỳ riêng một áng lâm tuyền » rồi tự vấn, bùi ngùi :
Nào vương cung đế miếu ở đâu nào
Mỉa mai vượn hót oanh chào

Oanh, vượn ở đây có thể hiểu theo nghĩa đen lẫn nghĩa bóng.

Trong văn học dân gian, có truyện nôm Bạch Viên Tôn Các, còn gọi là Lâm Tuyền Kỳ Ngộ, kể chuyện tình duyên giữa chồng người vợ vượn – một tiên nữ giáng trần dưới hình dạng một con vượn trắng. Nội dung dựa vào một truyện cổ tích đời Đường bên Trung Quốc. Đây là một truyện nôm xuất hiện sớm, vào thế kỷ 17 vì còn làm theo thể thơ Đường Luật, gồm có 146 bài thất ngôn bát cú. Một chuyện tình lãng mạn vượt ra khỏi thành kiến, giáo điều. Nhiều câu thơ bây giờ đọc còn thấy hay, ví dụ đoạn Bạch Viên khi trở về Thiên Đình nhớ chồng và hai con nơi hạ giới : _ Một mối thắm nồng, nguyền chửa phỉ
Hai phen nâng bế, nghĩa nào nguôi
Nhớ xuân dễ khiến hoa rơi lệ
Tủi phận cho nên nguyệt ngậm ngùi

Và nàng xin trở lại trần gian sống đoàn tụ với chồng con. Tình mẹ con nhắc đến câu ca dao :
Con vượn thương con lên non hái trái
Anh thương nàng phận gái mồ côi

Nhưng chuyện Vượn, trong tình mẹ con làm tôi cảm xúc và nhớ đời, là một bài tập đọc lớp Ba, bậc tiểu học, cách đây hơn nửa thế kỷ. Chuyện kể có người thợ săn muốn bắt sống một chú vượn con, đã dùng tên độc để giết vượn mẹ : « Vượn mẹ bị tên, biết mình không thể sống được bèn vắt sữa ra rừng cho con uống. Xong rồi lăn ra chết.
Người thợ săn quay về phía vượn con, cầm roi quất vào xác vượn mẹ. Vượn con thấy thế, kêu gào thương xót, chạy ngay lại gần, người đi săn bắt sống được. Lúc về nhà, cứ đêm đêm, vượn con nằm phục bên xác mẹ thì mới yên ; một hai khi lại ôm lấy kêu gào, vật vã, rất thảm thiết. Không được mấy hôm, vượn con cũng chết.
 » 2

Năm Thân là cầm tinh con Khỉ nói chung. Từ chú khỉ con đến khỉ đột, đười ươi và con vượn tiền thân của loài người, khoa học gọi là Homo Erectus Erectus. Tại Việt Nam, từ Bắc vào Nam, nhiều nơi còn di tích Người Vượn với những công cụ, bằng đá, tại Núi Đọ (Thanh Hóa), Xuân Lộc (Đồng Nai). Tại Thẩm Ồm (Nghệ An), Hang Hùm (Yên Bái) đã có những di chỉ chứng tỏ thời kỳ Người Vượn chuyển sang thành Người Khôn (Homo Sapiens) cách chúng ta khoảng 100 000 năm.

Trong mười hai con giáp, Rồng là biểu tượng gần chúng ta nhất về mặt tâm linh, tình cảm. Gần mà xa, vì con Rồng, tổ tiên dân tộc, chỉ là huyền thoại. Khỉ là biểu tượng gần chúng ta nhất về mặt vật chất, thân xác. Gần mà xa vì không mang ý nghĩa « dân tộc », tín ngưỡng và phong vị lãng mạn.

Năm Khỉ, nói chuyện khỉ, tuy là để vui Xuân, nhưng nói từ đầu đến đuôi, cũng là không đơn giản, quả là khỉ.

Đặng Tiến
Orléans, Xuân Bính Thân 2016

.

(1) Phi Vân, Đồng Quê, 1943, tr. 4. Sud Est Asie, tái bản 1981, Paris.
(2) Tình Mẹ Con, Sách Tập Đọc Lớp Ba, tr. 10, một Nhóm Giáo Viên, 1949, Sài Gòn

.

.

.

Catégories
Prose

Maman, je voudrais tant te dire…

Võ Thành Thọ (JJR68)

.

Selon nos traditions, à la fin de chaque année, nous avons l’habitude de nous remémorer certains faits des 365 jours passés pour mieux accueillir l’arrivée du nouveau printemps.

Dans cet esprit de « ôn cố tri tân » qui nous anime en cette fin d’année lunaire, ce que j’aurais tant voulu, aimé dire à ma mère – quand il était encore temps – je le fais aujourd’hui, inspiré par une scène qui s’est passée récemment dans une émission à la télévision.

Ce soir là quand j’ai vu le fils de Véronique Sanson, une chanteuse-compositeure de notre génération, lui rendre hommage en public depuis Los Angelès, j’ai eu soudain un gros pincement au coeur.

Ce jeune homme d’une trentaine d’années, en des termes simples et justes disait à sa mère à Paris, qu’il l’aimait et qu’il était fier d’être son fils. La mère et le fils étaient émus aux larmes, émotions sans feintes malgré la distance des terres et océan.

Ce fut également des mots sincères qu’un enfant, quelque soit son âge, aimerait pouvoir dire un jour à sa mère. Et pourtant, ce sentiment je l’ai toujours gardé dans le cœur sans jamais traduire en paroles pour le dire en face de la mienne… du temps où je pouvais encore porter une rose rouge à la boutonnière. « Một bông hồng cho những ai đang còn Mẹ »

Certainement notre éducation confucéenne doublée d’une nature réservée ne m’a pas permis de prononcer en son temps les trois mots « Maman, je t’aime » et je n’avais pas non plus la facilité teintée de sagesse de Nhât Hanh pour l’exprimer en poème :
” Un certain soir, en la regardant longuement, tu disais à ta mère : « Maman, sais-tu que je t’aime, Maman le sais tu ? “

“Rồi một chiều nào đó anh về nhìn Mẹ yêu, nhìn thật lâu
Rồi nói, nói với Mẹ rằng “Mẹ ơi, Mẹ ơi, Mẹ có biết hay không ?”
-Biết gì ? “Biết là, biết là con thương Mẹ không ?”

Cela fait bientôt six ans que ma mère n’est plus, et que le temps a pu lentement combler le pénible vide laissé par son départ. J’avais cependant toujours un sentiment indéfinissable que quelque chose me manquait encore. Ce « quelque chose », le fils de Véronique Sanson me l’a révélé quand il rendait ce soir là hommage à sa mère.

Soudain je rêvais, comme dans un « Cold Case », de pouvoir retourner, rien qu’un court moment, à mon adolescence des années soixante pour dire tout simplement de vive voix à ma mère combien je l’aimais.

Aujourd’hui, à l’âge des cheveux sel et poivre, je l’ai fait, en cette fin d’année lunaire, sans attendre le prochain Mother’s Day. Il est certes déjà tard, trop tard mais « Maman, ne vaut mieux-t-il pas trop tard que jamais ? »

Mẹ ơi,

” Mẹ già như chuối Ba Hương
Như xôi nếp một, như đường mía lau. “

.

Võ Thành Thọ
2008

.

Catégories
Prose

Dinh Cuong, la source résurgente

Dang Tien (BP60)

.

A quelqu’un qui me demanda, un jour, de présenter la peinture de Dinh Cuong en un mot, je répondis par une image : c’est une source résurgente. Réplique spontanée qui – au fil des années – s’avère comme une vue d’ensemble justifiée, depuis le processus de la création jusqu’aux œuvres accomplies. Et nous voilà, ensemble, le demi siècle en un clin d’œil.
Résurgence de souvenirs épars, de rêves inavoués, de quêtes intellectuelles angoissées, d’une adolescence tourmentée. Et qui sait, si les formes ne venaient pas de plus loin, d’une Vie Antérieure que le peintre pourrait évoquer, après le poète : « J’ai longtemps habité sous de vastes portiques » ou encore, toujours avec Baudelaire : « J’ai plus de souvenirs que si j’avais mille ans »

Source résurgente : eau souterraine à la recherche de lumière ; et chez Dinh Cuong, de sa propre lumière, spécifique à chaque moment de ses peintures. Elle vient à la vie, épousant les aspérités du sol accueillant, alluvial ou volcanique ; ses couleurs nous chantent leur chanson aérienne, lumineuse, rocailleuse ou cristalline. L’art de Dinh Cuong est constitué de ces soleils nocturnes, égarés, qui réclament chacun son aurore et qui donnent à chaque toile autant de ferveur que de nostalgie, avec une lueur fugitive et discrète d’espérance mélancolique.

Entendons-nous : l’art en tant que création n’est jamais une naturelle réminiscence, elle exige effort volontaire, travail assidu et recherche perpétuelle. Résurgence ici, veut dire aussi gestation et souffrance, ce qui constitue l’autre face dans l’art de Dinh Cuong.

Jeune peintre, en 1963, à la sortie de l’Ecole des Beaux Arts de Huê, il s’oriente déjà vers l’art abstrait et moderne, déclarant à la revue The Gioi Tu Do, (Monde Libre), en 1967, «  Peu à peu, j’abandonne le concept d’objets réels, pour ne garder que la matière pure et spécifique de la peinture à l’huile ».
Il nous livre en même temps sa façon de procéder : « Ma toile débute toujours dans la lumière éclatante, comme une fleur qui explose, pour revenir à sa nuit bleue et noire ; résultat qui n’arrivait pas au début, il est seulement accompli après des longues expérimentations, lieu de convergence du hasard et d’un destin mystérieux ».

Confidence précieuse qui ne contredit pas l’image de la source résurgente que j’ai avancée au début ; elle la complète par l’information quant à la réalisation technique, qui est la dernière étape de l’œuvre. L’artiste créateur devient artisan réalisateur. Dinh Cuong polit, lisse, efface, estompe pour renvoyer le clair éclatant à l’ombre artistique qu’il appelle « sa nuit bleu noir ». Mais il ne sort pas du processus général de toute création artistique qui consiste à transmettre les formes du mythos à la lumière du logos, translatant le voyage d’Ulysse à l’espace Euclidien. L’art, quel qu’il soit, évolue de l’obscur à la clarté, et non l’inverse.

Louis Aragon a ce vers profond : « De quoi la nuit rêvent les roses ? »
Question étonnante. Trouve-t-elle réponse auprès de la peinture de Dinh Cuong ? Peint-il, par hasard, le rêve des roses, à travers l’imagerie de son imaginaire ?
La peinture de Dinh Cuong, dans son essence, est-elle mémoire d’une rose qui a livré au monde tout son parfum ?
Et l’art du monde serait-il autre chose que le souvenir d’un parfum ?

.

Dang Tien

Pour l’exposition de Dinh Cuong, Galerie Annam Héritage, Paris, du 28/10/2010 au 6/11/2010.

.

Catégories
Prose

Đinh Cường, thi sĩ của hoài niệm

Đầu những năm 60, bóng dáng của Modigliani và của những bậc thầy các trường phái hội họa mới thấp thoáng đi về dưới những bức tường cổ rêu phong của Đại Nội.
Ở đó có trường Cao Đẳng Mỹ Thuật Huế và ở đó cũng có Đinh Cường.
Rất nhiều mùa màng đã đi qua những căn phòng trọ luôn dời đổi.
Trong những căn phòng đó đã có một thời, thi ca và âm nhạc đã sống cùng với hội họa, và đã cùng hít thở đến quen thuộc cái bầu không khí hăng hắc mùi sơn dầu còn tươi từ những tấm toile (bố vẽ) mới phác thảo, đang tìm tòi.
Đó là cái thời của những tuổi hai mươi tìm gặp nhau trong một mối đồng cảm về nghệ thuật.
Cái tuổi của lãng mạn, trữ tình và đầy chất hào hoa phong nhã.
Tôi đã gặp Đinh Cường vào thời điểm ấy.
Trong những đêm mùa đông, băng qua khu vườn rộng ẩm ướt mưa ở Bao Vinh, trước khi gặp Cường bao giờ tôi cũng phải “diện kiến” với một con mắt đỏ lập lòe của ngọn đèn dầu trên am thờ.
Đó chính là cái point riche (điểm tráng lệ) của đêm đen mà về sau này tôi vẫn thường bắt gặp trên tranh của Cường.

Trịnh Công Sơn ký họa Đinh Cường – 1985

Với cái nền lãng mạn đầy tính chất thi ca, Đinh Cường đã say sưa “vọc” sơn dầu và nhồi nặn tâm hồn mình vào trong ấy.
Thời gian ấy, tôi rất hiếm thấy những họa sĩ trẻ sử dụng sơn dầu nhuần nhuyễn như Đinh Cường.
Và đó cũng là giai đoạn của những “khỏa thân xanh” (nu blue), “khỏa thân hồng” (nu rose) phảng phất đường nét của Modigliani, một trong những bậc thầy về chân dung mà anh rất ngưỡng mộ và yêu mến.
Sức làm việc của Đinh Cường trong những năm ấy đã gây cảm hứng rất nhiều cho bạn bè làm văn nghệ ở quanh anh.
Tuy đang ở trong những năm đầu của nghề nghiệp nhưng anh đã biết tạo cho mình một vòm khí hậu riêng biệt.
Đó là cái khí hậu đầy lôi cuốn mà người ta thường tìm thấy trong thế giới của những nghệ sĩ đã trưởng thành trong tác phẩm cũng như trong lối sống.
Ở đó người ta chỉ bắt gặp sự sáng tạo, nỗi đam mê không bờ bến và những giấc mơ kỳ diệu.
Được sự cộng sinh của những trào lưu mới mẻ của văn học nghệ thuật thế giới lúc bấy giờ, Đinh Cường đã buông thả đôi cánh phóng khoáng của tâm hồn mình để có dịp mang thế giới màu sắc về những biên giới sáng tạo không hình thể.
Theo thời gian, cùng với nỗi đắm đuối khôn cùng đối với chất liệu sơn dầu, anh đã biến những linh cảm của thế giới tinh thần trước đời sống và thiên nhiên thành những khối màu nói bằng thứ ngôn ngữ thầm lặng.
Những khuôn mặt thiếu nữ, hoa, lá, núi, đồi… có lúc đã nhòe đi và hòa lẫn, tan biến vào nhau, để trở thành cái tinh khiết, cái thuần chất nhất, đó là cảm xúc, là sự rung động đã được lọc sạch trước thế giới bên ngoài.

Tác phẩm “Nude”

Đinh Cường là con người sống để vẽ và đi.
Đi với Đinh Cường đồng nghĩa với hạnh phúc.
Một thời tuổi trẻ chúng tôi đã cùng đi và đã sống những mảng đời đầy thơ mộng.
Đi và sống giữa cuộc đời mênh mông như những nhà thám hiểm cô đơn mà kẻ dìu dắt cũng chính là bản thân mình.
Có khi về giữa một thị trấn, có khi ở trong lòng một thành phố nhỏ và cũng đã có nhiều tháng ngày về ẩn dật trong một căn nhà sàn nằm trơ trọi giữa rừng núi vùng Kađô.
Cái vốn liếng một đời người có được cũng từ những chuyến đi đó – Đi, để tạo một khoảng cách cần thiết đối với cuộc sống quen thuộc của mình, để ngẫm nghĩ về nó.
Đó cũng là khoảng cách, bước lùi cần thiết cho một họa sĩ để có một cái nhìn quán xuyến hơn trước bức tranh mình đang vẽ.
Đinh Cường vẽ tranh như người ta thở.
Nhưng để đạt được sự dễ dàng đó không phải ai cũng làm được.
Trong Đinh Cường, có sự phóng khoáng bềnh bồng của một người nghệ sĩ nhưng đồng thời cũng có sự cần mẫn, tinh tế của một người thợ.

Tác phẩm “Phố mùa đông”

Qua một phần tư thế kỷ, Đinh Cường đã mang đến cho những người yêu hội họa, qua những phòng tranh trong nước cũng như ở nước ngoài, hoặc trên sách báo, gần cả ngàn bức tranh lớn, nhỏ, và minh họa.
Nhớ lại những phòng tranh cũ và được xem những bức tranh mới, tôi chợt nhận thấy rằng trong Đinh Cường luôn luôn có một sự trở về.
Anh không có cái logic của người luyện kim từ một mẩu sắt thô biến thành một thanh kiếm đẹp.
Anh như mang trong mình một nỗi nhớ không nguôi đối với kỷ niệm.
Trong tranh của Đinh Cường không có bóng dáng của cái gọi là sự trở thành (le devenir).
Anh có vẻ như đang còn mải đi tìm cái tuyệt đối trong sự tương đối được lặp đi lặp lại mãi của một đời người.
Tìm đến thế giới tranh của Đinh Cường là tìm đến với sự yên tĩnh đẫm chất thơ mộng.
Dưới nét bút của anh, không có hình bóng của sự bạo hành hoặc sự nồng nhiệt đầy cuồng nộ của những tâm hồn phương Tây.
Cái màu xanh lạnh được chuyển qua nhiều sắc độ khác nhau cùng màu hồng nồng nàn trong những bức tranh xưa vẫn còn tìm thấy lại trên những tấm tranh mới.
Rõ ràng Đinh Cường không muốn tìm kiếm hoặc chạy theo những trường phái mới nữa.
Anh đang dừng lại trong những biên giới của chính mình để tìm kiếm qua hình thể, sắc màu, cái vẻ đẹp lung linh của một giấc mơ không nắm bắt được.
Nhìn những bức tranh mới đây, với khung cảnh quen thuộc của núi rừng Đà Lạt, Lâm Đồng, tôi như vẫn còn nghe thấy được chút nắng vàng rơi dưới thung lũng, đốm lửa bập bùng trên những đường đèo và cả tiếng lục lạc trên cổ con ngựa trắng kéo khoang xe chở Đinh Cường một mình từ quận Đơn Dương trở về căn nhà sàn gỗ ở Kađô trên tay cầm nải chuối và chai xăng để rửa cọ.
Đà Lạt, Huế cùng những màu đất đá rêu phong là nỗi ám ảnh và cũng là nỗi nhớ triền miên của Đinh Cường.
Trong hội họa, tôi gọi Đinh Cường là thi sĩ của hoài niệm.

TRỊNH CÔNG SƠN
(1988)
Nguồn : Tạp chí Sông Hương

.

.

Từ trái qua phải :
Trịnh Công Sơn, Bửu Chỉ, Đinh Cường, Lữ Quỳnh, Đỗ Quang Em
tại nhà Đinh Cường.

.

.